Hai mảng màu đối lập của doanh nghiệp nông nghiệp
6 tháng đầu năm, DN ngành cao su giảm mạnh lợi nhuận do diễn biến bất lợi của thị trường mủ cao su
(ĐTCK) Kết
quả kinh doanh 6 tháng đầu năm 2014 của 8 DN thuộc ngành nông nghiệp và
dịch vụ niêm yết trên hai sàn chứng khoán cho thấy hai mảng màu khá đối
lập.
Nếu như
lợi nhuận của nhóm DN trồng và sơ chế nguyên liệu nông sản như cao su,
thuốc lá tiếp tục sút giảm do biến động bất lợi của thị trường thì nhóm
DN ngành giống cây trồng lại vẫn giữ được đà tăng trưởng tốt, hứa hẹn
những bứt phá mạnh trong thời gian tới.
Lợi nhuận DN cao su tiếp tục sa sút
7 tháng
đầu năm nay, giá cao su trên thị trường thế giới tiếp tục giảm mạnh,
đầu ra khó khăn. Theo thống kê mới nhất của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, xuất khẩu cao su 7 tháng đầu năm 2014 ở mức 451.000 tấn, đạt
kim ngạch 828 triệu USD, giảm 10% về khối lượng và giảm tới 32,3% về
giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Sản lượng cao su xuất khẩu trên tất cả
các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như Trung Quốc, Nhật Bản,
Singapore… đều giảm mạnh. Giá bán mủ cao su bình quân của các DN cũng
đã về dưới mức 40 triệu đồng/tấn, thấp hơn tới trên 50% so với năm 2011.
Bối cảnh thị trường đã phản ánh rất rõ trên kết quả kinh doanh 6 tháng
đầu năm của các DN trong nhóm này.
CTCP
Cao su Phước Hòa (PHR), DN có quy mô lớn nhất trong nhóm, tập trung vào
phân khúc sản phẩm có giá bán tốt và nhu cầu ổn định so với các DN trong
ngành đã ghi nhận lợi nhuận sau thuế 6 tháng đầu năm ở mức120,735 tỷ
đồng. Dù giá bán mủ của PHR có cao hơn mức kế hoạch, giúp lợi nhuận Công
ty 6 tháng khá khả quan so với kế hoạch cả năm 2014 là 211 tỷ đồng,
nhưng so với cùng kỳ 2013 lại giảm tới hơn 13% (135,56 tỷ đồng). Năm
2013, lợi nhuận của PHR đã sụt giảm tới 40% so với năm trước đó.
Còn tại
CTCP Cao su Đồng Phú (DPR), DN có quy mô lớn thứ hai trong nhóm, 6
tháng đầu năm, với giá bán bình quân 43,6 triệu đồng/tấn, thấp hơn kế
hoạch là 45 triệu đồng/tấn, Công ty chỉ ghi nhận lãi sau thuế 70,615 tỷ
đồng, giảm hơn một nửa so với cùng kỳ 2013 (160 tỷ đồng).
Cũng
trong 6 tháng, CTCP Cao su Thống Nhất (TNC) chỉ đạt doanh thu 30,864 tỷ
đồng, trong khi cùng kỳ đạt 73,827 tỷ đồng; lợi nhuận sau thuế 11,262
đồng, giảm hơn một nửa so với cùng kỳ năm ngoái. Với kết quả kinh doanh 6
tháng như vậy, HĐQT TNC đã thông qua nghị quyết điều chỉnh giảm các chỉ
tiêu kế hoạch năm 2014. Theo đó, doanh thu từ 119 tỷ đồng giảm xuống
còn 93,279 tỷ đồng; lợi nhuận giảm mạnh từ 27 tỷ đồng xuống 15 tỷ đồng;
chia cổ tức 5%. Theo giải thích của lãnh đạo TNC, ngoài bất lợi của thị
trường chung, TNC còn có bất lợi về quy mô: với sản lượng nhỏ, Công ty
không ký được hợp đồng kỳ hạn với mức giá cố định.
CTCP
Cao su Hòa Bình (HRC) là DN duy nhất trong nhóm có lợi nhuận 6 tháng đầu
năm tăng trưởng so với cùng kỳ, với mức tăng 20%, đạt hơn 30 tỷ đồng
lãi sau thuế. Song lợi nhuận này lại nhờ hoạt động thanh lý vườn cây
cao su, còn mảng hoạt động chính của Công ty lỗ thuần 490 triệu đồng do
giá bán cao su và sản lượng khai thác đều giảm.
CTCP
Cao su Tây Ninh (TRC), dù có tới 70% sản lượng được tiêu thụ cho các cơ
sở khách hàng trong nước như Nệm Kim Đan, CTCP Khải Hoàn, 30% còn lại
xuất khẩu sang thị trường Indonesia, được đánh giá là tránh phụ thuộc
vào thị trường Trung Quốc, nhưng trong 6 tháng đầu năm, sản lượng tiêu
thụ chỉ hoàn thành 34,9% kế hoạch, đạt 4.773 tấn. Nhờ giá bán bình quân
tăng cao so với kế hoạch, Công ty đạt 79,73 tỷ đồng lãi sau thuế, hoàn
thành 65,9% kế hoạch năm 2014. Tuy nhiên, con số lợi nhuận này đã sụt
giảm đáng kể so với 98 tỷ đồng cùng kỳ 2013.
Thời
gian tới, các DN cao su có thể tiếp tục phải đối mặt với khó khăn, bởi
nhu cầu từ các thị trường lớn như Trung Quốc sụt giảm và nguồn cung tăng
dội. Theo dự báo của Công ty Tư vấn Rubber Economic, có trụ sở tại
London, cao su thiên nhiên năm nay sẽ dư thừa 652.000 tấn, lượng tồn kho
cao su lớn nhất trong vòng một thập niên trở lại đây.
DN
ngành nông nghiệp duy nhất trên sàn HNX là CTCP Ngân Sơn (NST) cũng gặp
rất nhiều khó khăn bởi việc tiêu thụ thuốc là điếu của các khách hàng
truyền thống sụt giảm mạnh. 6 tháng đầu năm, Công ty chỉ ghi nhận lãi
sau thuế 1,636 tỷ đồng. Dù con số này khả quan hơn nhiều mức âm 7,428 tỷ
đồng cùng kỳ, nhưng vẫn còn khoảng cách quá xa so với kế hoạch cả năm
là 21 tỷ đồng. Hàng tồn kho cao, dẫn đến chi phí tài chính tăng, hệ số
nợ cao, gấp 3,71 lần vốn chủ sở hữu là hiện trạng tại NST. Thuyết minh
báo cáo tài chính bán niên 2014 của NST cho thấy, thời điểm 30/6/2014,
Công ty có khoản vay ngắn hạn và nợ dài hạn đến hạn trả tổng cộng là
322,689 tỷ đồng.
DN ngành giống cây trồng tăng tốc
Đối lập
với bức tranh lợi nhuận khá u ám của các DN sản xuất nguyên liệu như
cao su, thuốc lá, hai DN ngành giống cây trồng là CTCP Giống cây trồng
Trung ương (NSC) và CTCP Giống cây trồng miền Nam (SSC) vẫn giữ được
“phong độ” ổn định.
6 tháng
đầu năm, NSC có doanh thu 405 tỷ đồng, tăng trưởng gần 20% so với cùng
kỳ (333,54 tỷ đồng); lợi nhuận sau thuế đạt 62,389 tỷ đồng, hoàn thành
54% kế hoạch lợi nhuận cả năm (115 tỷ đồng), tăng mạnh so với mức 53,8
tỷ đồng cùng kỳ năm 2013. Lãi cơ bản trên mỗi cổ phần (EPS) 6 tháng đầu
năm đạt 5.652 đồng.
“Người
anh em” SSC có báo cáo kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm khá ổn định,
với doanh thu 346,18 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế 46,773 tỷ đồng, giảm
không đáng kể so với mức 347,09 tỷ đồng doanh thu và 46,873 tỷ đồng lợi
nhuận cùng kỳ 2013.
NSC và
SSC là hai DN lớn nhất trong ngành giống trong nước, với những thế mạnh
riêng có. SSC chủ yếu cung ứng hạt giống ngô (tự phát triển và phân
phối), chiếm tới 59% trong cơ cấu doanh thu 2013; giống lúa 29%. Thị
trường tiêu thụ lớn nhất của SSC là khu vực TP. HCM, nhưng gần đây, thị
phần tiêu thụ của DN này tại khu vực Hà Nội đang tăng mạnh. Tháng 10
tới, Dự án Nhà máy chế biến hạt giống Trà Vinh của SSC, có tổng mức đầu
tư 15 tỷ đồng, dự kiến hoàn thành với quy mô chế biến từ 2.000-2.500 tấn
hạt giống/năm. Nằm trong chiến lược gia tăng sản phẩm tự phát triển,
SSC đã mua lại Công ty Liên doanh hạt giống Đông Tây, để phát triển hạt
giống rau, vốn có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với phân phối hạt giống
ngô, lúa... Mục tiêu năm nay, mảng hạt rau sẽ đóng góp 38 tỷ đồng trong
cơ cấu tổng doanh thu của Công ty và đạt mức tăng trưởng 10% hàng năm.
Hiện
SSC đã trở thành “người một nhà” với NSC, sau khi NSC mua lại cổ phần
của SSC với tỷ lệ lên tới 24,7%. Trong kế hoạch thâu tóm các DN cùng
ngành, NSC đã nắm tỉ lệ chi phối ở 4 doanh nghiệp giống có tiềm năng ở
miền Bắc và miền Trung và mới đây trở thành cổ đông lớn của CTCP Giống
cây trồng Thái Bình (TSC), được đánh giá nằm trong TOP 3 công ty giống
nội địa. TSC hiện có hệ thống phân phối giống lúa rộng khắp cả nước, tự
phát triển nhiều giống lúa cao sản, có khả năng chống chịu bệnh tốt, cho
năng suất và chất lượng cao. NSC cũng tăng vốn sở hữu tại CTCP Giống
nông lâm nghiệp Quảng Nam lên 85%. Bước đi này đã tạo cho Công ty chỗ
đứng vững chắc tại các vùng sinh thái, khai thác lợi thế thương mại của
các đơn vị trên và mở ra cơ hội hợp tác phát triển và ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp cũng như góp phần nâng cao vị thế
cạnh tranh của công ty.
Cuối
tháng 7 vừa qua, CTCP Xuyên Thái Bình Dương (PAN) đã chính thức trở
thành công ty mẹ của NSC, với tỷ lệ sở hữu 53%, nằm trong chiến lược mở
rộng đầu tư của PAN trong lĩnh vực nông nghiệp.
Thị
trường giống trong nước vẫn bị thao túng bởi 80% giống ngoại và lợi thế
thuộc về các công ty đa quốc gia có tiềm lực mạnh về vốn, công nghệ,
nhân lực và quản trị công ty. Tuy nhiên, với chính sách ưu đãi của Nhà
nước đối với lĩnh vực tam nông, đặc biệt là các DN ngành giống, dư địa
phát triển của các DN ngành giống còn rất rộng
(Nguồn: tinnhanhchungkhoan.vn)