Chuyển đến nội dung chính

Đầu tư cho nghiên cứu phát triển nông nghiệp: Ruộng đồng thiếu vắng giống nội

Đầu tư cho nghiên cứu phát triển nông nghiệp: Ruộng đồng thiếu vắng giống nội

Dù là nước nông nghiệp nhưng từ nhiều năm nay, Việt Nam phải nhập khẩu tới 70-80% giống cây trồng. Cũng vì thế mà, trên đồng ruộng Việt Nam giờ ngập tràn các giống ngoại (chủ yếu là lúa, ngô)…


Mỏi mắt tìm giống tốt
Trong những năm gần đây, với các tiến bộ kỹ thuật nhất là giống đưa vào nước ta ngày càng nhiều, thế nhưng tỷ lệ ứng dụng sản xuất trên đồng ruộng lại không đáng là bao. Có thể kể đến như trên đồng ruộng các tỉnh Bắc Bộ vẫn là những giống đã trồng từ hàng chục, thậm chí 15-20 năm nay như khang dân, Q 5, tạp giao, gần đây có xuất hiện một số giống mới được trồng trên diện tích lớn nhưng chủ yếu là của các doanh nghiệp như BC15, RVT… Còn ở đồng bằng sông Cửu Long- vựa lúa của cả nước bà con vẫn chủ yếu trồng giống lúa chất lượng thấp IR50404, diện tích trồng các giống chất lượng cao như OM6972, Jasmine không đáng kể.


Khu vực nghiên cứu ngô của Trường ĐH Nông nghiệp Hà Nội.
Khu vực nghiên cứu ngô của Trường ĐH Nông nghiệp Hà Nội.

Chị Hoàng Thị Hiền, nông dân xã Ân Hòa (Kim Sơn, Ninh Bình) vốn trồng lúa đã hơn 20 năm nay. Trước đây, nhà chị thường cấy giống ải 32, tạp giao, năng suất bình quân từ 2-2,5 tạ/sào, tuy nhiên chất lượng gạo 2 giống này kém nên lúa bán không được giá. Khoảng chục năm gần đây, nhà chị chuyển sang cấy giống bắc thơm 7 và nếp tạp giao (cùng có nguồn gốc từ Trung Quốc). “Mấy năm đầu, năng suất lúa đạt 1,9-2 tạ/sào, nhưng vài vụ gần đây thì chỉ còn 1,3-1,7 tạ/sào, nếu thời tiết không thuận lợi, có khi chỉ thu được 1 tạ lúa. Trong khi đó, chúng tôi phải dùng nhiều phân bón hơn, sâu bệnh cũng liên miên nên càng phải tăng lượng thuốc trừ sâu, đặc biệt là 2 giống này không chịu được rét, dễ nhiễm rầy và khô vằn” – chị Hiền cho hay.

Hỏi tại sao không chuyển sang cấy lúa lai, chị Hiền nói: “Giống lúa lai đắt lắm, 70.000 - 80.000 đồng/kg, trong khi bắc thơm 7 chỉ 15.000 – 21.000 đồng/kg; nếp tạp giao 16.000 – 17.000 đồng/kg. Hơn nữa giống lúa lai ít nơi bán nên khó mua, đặc biệt là chất lượng gạo thua xa bắc thơm 7”. Nhiều nông dân ở đây cũng cho biết, không phải họ không muốn trồng các giống lúa có năng suất, chất lượng, mà vấn đề nằm ở chỗ, không biết tìm những giống đó ở đâu, nên đành phải cấy giống cũ.

Theo ông Trần Đình Toàn – Phó Giám đốc Sở NNPTNT tỉnh Ninh Bình, một số giống có thể đã bị thoái hóa, nhưng nông dân vẫn thích cấy vì không tìm được giống khá hơn. Như Ninh Bình, trong vụ xuân 2014 toàn tỉnh gieo cấy 41.000ha lúa, trong đó giống phổ biến nhất vẫn là bắc thơm 7 và LT2 (được chọn lọc từ KD90 của Trung Quốc, nhập vào Việt Nam năm 1993), diện tích lúa lai chỉ khoảng 20 – 30%”.

Theo Hiệp hội Thương mại giống cây trồng Việt Nam, cả nước hiện có 600.000 - 700.000ha lúa lai, nhưng có đến 70-80% diện tích sử dụng giống nhập khẩu, chủ yếu là mua từ Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Thái Lan... Trung bình lượng lúa lai nhập khẩu của Việt Nam vào khoảng 13.000 - 15.000 tấn/năm, trị giá trên 40 triệu USD.

Ông Hà Quang Dũng - Giám đốc Trung tâm Khảo kiểm nghiệm giống, sản phẩm cây trồng quốc gia cho biết: “Hiện nay trong nước có 2 nguồn giống, một là từ các viện nghiên cứu. Các viện thường tạo giống bằng công nghệ truyền thống hoặc hoặc nhập giống từ nước ngoài về rồi chọn tạo. Nguồn thứ 2 là từ các doanh nghiệp, cá nhân và cũng tạo giống như các viện, song giống chủ lực hiện nay vẫn là nhập của nước ngoài về rồi chọn tạo, trong đó lúa nhập nhiều nhất từ Trung Quốc, Viện Lúa quốc tế (IRRI); giống ngô nhập từ Ấn Độ, Mỹ, Thái Lan…”.

Theo thống kê của Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam, trong 10 giống lúa chủ lực ở phía Nam (diện tích cấy nhiều nhất hiện nay) thì số 1 vẫn là giống IR50404 – nguồn gốc từ IRRI, nhập vào Việt Nam từ đầu năm 1990; còn ở phía Bắc, 3 giống phổ quát nhất đều là của Trung Quốc. Theo lý giải của một số nhà khoa học là do miền Bắc gần Trung Quốc nên người dân… thích dùng giống của họ hơn.

Còn theo một báo cáo của Cục Trồng trọt (Bộ NNPTNT), do khả năng tự sản xuất hạt lúa lai tại Việt Nam chỉ đạt 3.500 - 4.000 tấn/năm (đáp ứng 24% nhu cầu) nên mỗi năm Việt Nam phải nhập khoảng 13.000 tấn hạt giống lúa lai. Ngay cả nguồn giống bố mẹ để sản xuất ra hạt lúa lai, nước ta cũng không chủ động được mà vẫn phải nhập từ Trung Quốc.

Giống nội khó “sống”
Một báo cáo của Vụ KHCN và Môi trường (Bộ NNPTNT) cho thấy, riêng năm 2013, Bộ đã công nhận 47 giống cây trồng mới, trong đó có 15 giống cây trồng chính thức (8 giống lúa, 2 giống ngô, 2 giống lạc, 2 giống mía, 1 giống quýt). Thế nhưng, chẳng mấy giống trên “sống” được trên đồng ruộng.

PGS-TS Tạ Minh Sơn - nguyên Viện trưởng Viện KHKT nông nghiệp Việt Nam cho rằng, khâu nghiên cứu của chúng ta hiện nay đang có vấn đề, đó là điểm đến chưa đúng mục đích, nghiên cứu vẫn mang tính chất bao cấp, chưa tính đến hiệu quả, nhất là tâm huyết của nhà khoa học không cao. “Mình vẫn nghiên cứu ra nhiều, song vấn đề là nghiên cứu ra nhưng không đưa được vào sản xuất. Bản chất của giống là càng đơn giản, càng dễ vào, trong đó giống phải đảm bảo được 3 đặc tính căn bản là dễ tính, thích ứng rộng và thời gian sinh trưởng ngắn”- ông Sơn nói.


"Trên thực tế, đội ngũ nghiên cứu khoa học hiện không đồng đều, những người già có kinh nghiệm thì lại về hưu, người trẻ thì không thực tế với sản xuất, họ chỉ lo “làm ăn” trên đề tài đã trúng thầu”.
PGS-TS Tạ Minh Sơn
Tương tự giống lúa, tuy là loại cây lương thực quan trọng thứ hai và có diện tích lớn thứ 2 ở nước ta với khoảng 1,2 triệu ha, sản lượng 5 triệu tấn/năm, song công tác nghiên cứu giống hiện cũng có vấn đề. Thực tế, ngô là mảng bán được nhiều bản quyền giống nhất với khoảng 10 giống ngô, tổng trị giá chuyển nhượng trên 30 tỷ đồng (trung bình hơn 3 tỷ đồng/bản quyền giống), nhưng nếu xét ở góc độ thương mại thì cây ngô cũng không khá hơn cây lúa.

TS Đặng Ngọc Hạ - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu ngô cho biết: “Trung bình mỗi năm cả nước cần khoảng 20.000 tấn ngô giống, trong đó Viện Nghiên cứu ngô (tính cả sản xuất, kinh doanh, bán bản quyền, hợp đồng với các doanh nghiệp) cũng chỉ cung cấp được khoảng 30% lượng giống; 70% còn lại phụ thuộc vào nhập khẩu.

“Nếu so sánh với các tập đoàn lớn về giống trên thế giới, “cuộc chơi” của các nhà khoa học trong lĩnh vực nghiên cứu giống ngô ở nước ta đúng là không cân sức. Làm sao chúng ta có thể “bao” hết được sản lượng giống cho diện tích ngô của cả nước, khi các công ty giống nước ngoài có tiềm lực hơn về vốn, bề dày kinh nghiệm cũng như nhạy bén, chuyên nghiệp hơn trên thị trường, và khi chuyển giao, họ luôn vượt xa chúng ta” – TS Hạ nói.

Dù nói như vậy, song trên thực tế việc ngành nghiên cứu giống ngô nước ta ngày càng đuối sức chủ yếu là do “tự chặt chân” nhau. Điều này thể hiện ở chỗ, các viện của chúng ta hiện nghiên cứu giống chủ yếu dưới dạng “đấu thầu” đề tài để lấy kinh phí về nuôi sống bộ máy, còn có ra cái gì không thì ít người quan tâm. Và đến khi nghiệm thu đề tài, vì nể nang, nhiều đề tài được chấm “xuất sắc” rồi bỏ vào… tủ.
(Nguồn: danviet.vn)

Bài đăng phổ biến từ blog này

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu Xuất hiện trong nhiều món ăn quen thuộc và có nhiều tác dụng khác nhau nên lá lốt được trồng ở khắp nơi. Người dân chỉ cần chú ý theo một số kỹ thuật trồng cây dưới đây là có thể tự cung cấp rau cho gia đình. Cây lá lốt có tên khoa học là Piper lolot, thuộc họ  hồ tiêu  (Piperaceae) và có  kỹ thuật trồng cây  rất đơn giản. Lá lốt là loại rau quen thuộc và được dùng phổ biến trong các bữa ăn. Lá lốt thường được sử dụng ăn sống như các loại rau thơm hoặc làm rau gia vị khi nấu canh. Ngoài là rau ăn lá, lá lốt còn là vị thuốc chữa nhiều bệnh, khi dùng có thể dùng tươi, phơi hay sấy khô. Lá lốt có kỹ thuật trồng cây không quá khó Đây là loài cây thảo sống nhiều năm, thân có rãnh dọc. Lá đơn nguyên, mọc so le, hình tim, có màu xanh đậm, mặt lá bóng. Hoa mọc từ nách lá, cụm hoa bông, hoa đực và hoa cái khác gốc. Quả mọng chứa một hạt. Cây thường mọc hoang trong rừng, nơi ẩm ướt dọc các bãi cát ven suối và phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc

Tích cực phòng trừ đạo ôn

Tích cực phòng trừ đạo ôn Dự báo, thời gian tới bệnh đạo ôn hại lá có thể gây hại trên diện rộng. Riêng đối với những diện tích lúa trỗ sớm trong tháng 4, bệnh đạo ôn cổ bông có khả năng phát sinh. (Ánh minh hoạ)   Vụ xuân năm nay, tỉnh Tuyên Quang gieo cấy 20.169 ha lúa, đạt 104,3% kế hoạch. Hiện lúa bước vào giai đoạn đẻ nhánh rộ đến đứng cái làm đòng; tuy nhiên thời tiết diễn biến bất thường, tạo điều kiện cho sâu bệnh phát sinh gây hại rải rác trên một số giống nhiễm như BC 15, HT 1, Bắc thơm số 7, nếp... với diện tích 7 ha tại các huyện Yên Sơn, Sơn Dương, Chiêm Hóa, TP Tuyên Quang..., tỷ lệ bệnh nơi cao 3 - 5 % số lá. Dự báo, thời gian tới bệnh đạo ôn hại lá có thể gây hại trên diện rộng. Riêng đối với những diện tích lúa trỗ sớm trong tháng 4, bệnh đạo ôn cổ bông có khả năng phát sinh.   Anh Vũ Đình Tám, Trưởng trạm BVTV huyện Yên Sơn cho biết, trạm đã phân công cán bộ, bám sát cơ sở phối hợp với khuyến nông hướng dẫn bà con thực hiện bón cân đối NPK, không bón quá nhiều ho

Định hướng dài hạn nhằm thu hút vốn FDI vào nông nghiệp

Định hướng dài hạn nhằm thu hút vốn FDI vào nông nghiệp Ảnh chỉ có tính minh họa. (Ảnh: Lê Bá Liễu/TTXVN) Là ngành có nhiều tiềm năng và lợi thế, song dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng hạn chế so với nhu cầu thu hút vốn và những kỳ vọng. Trong khi đầu tư nước ngoài của cả nước có xu hướng tăng, thì dòng vốn này vào lĩnh vực nông nghiệp lại quá nhỏ về quy mô dự án và tỷ trọng vốn đầu tư so với tổng đầu tư nước ngoài của cả nước. Điều này đang đòi hỏi ngành nông nghiệp phải có một chiến lược, định hướng dài hạn để thu hút vốn FDI. FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn được đặc biệt coi trọng và được khuyến khích để bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp. Với quyết tâm vực dậy nguồn vốn này, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát nhấn mạnh Bộ sẽ rà soát lại cơ chế chính sách để thực sự khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, từ đó tạo m