Chuyển đến nội dung chính

Trồng cây mắc ca, Việt Nam sẽ tạo nguồn thu cả tỷ đôla?


Trồng cây mắc ca, Việt Nam sẽ tạo nguồn thu cả tỷ đôla?



Theo các chuyên gia, nếu bắt đầu xây dựng ngành công nghiệp mắc ca Việt Nam ngay từ bây giờ, trong thời gian từ 15 -20 năm tới, tổng sản lượng mắc ca hàng năm có thể đạt 800.000 nghìn tấn hạt, chế biến được 250.000 tấn nhân. Giá trị thương mại có thể đạt gần 4 tỷ USD/năm.
 
Quả mắc ca
Mắc ca được mệnh danh là "hoàng hậu" quả khô bởi giá trị dinh dưỡng vượt trội, cũng như mùi vị rất đặc trưng. Ảnh: ST
 
Tiềm năng cây mắcca đã được thế giới công nhận và trong tương lai không xa, cây mắc ca sẽ là cây chiến lược trong ngành nông nghiệp Việt Nam, mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Đây là nhận định của các chuyên gia tại Diễn đàn “Mắc ca Việt Nam – Tiềm năng phát triển và cơ hội hợp tác” do Ban chỉ đạo Tây Bắc, Viện nghiên cứu và phát triển công nghệ nông lâm nghiệp Thành Tây và CtyCP Thương mại, Đầu tư và Phát triển Công nghệ Quốc tế vừa phối hợp tổ chức tại Hà Nội.
 

Cây "tỷ đô"
Macadamia (mắc ca) được mệnh danh là "hoàng hậu" quả khô, bởi giá trị dinh dưỡng vượt trội, cũng như mùi vị rất đặc trưng. Theo thống kê của Hiệp hội Quả hạch và hoa quả sấy thế giới (INC), năm 2012, tổng sản lượng mắc ca (sản phẩm nguyên liệu) toàn thế giới đạt trên 145.000 tấn về lượng và đạt khoảng 728 triệu USD về giá trị. Tốc độ tăng trưởng của thị trường từ năm 2006 đến nay tăng trung bình từ 10-15%/năm.
Úc là nước dẫn đầu về sản xuất mắc ca trong 40 năm qua. Năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu của Úc chiếm 47% và sau đó là Nam Phi với 30%. Tuy nhiên, năm 2014, Nam Phi đã soán ngôi của Úc để trở thành quốc gia sản xuất mắc ca lớn nhất thế giới. Sản lượng mắc ca của Nam Phi là 40.405 tấn, xuất khẩu chiếm 95%, trong khi đó sản lượng Úc là 35.200 tấn, xuất khẩu chiếm 50%. Đây là một thành tích đáng nể của Nam Phi sau 20 năm kiên trì phát triển ngành mắc ca.
Thị trường mắc ca tại châu Á hiện đang tăng trưởng rất mạnh. Năm 2009, thị trường tiêu thụ nội địa mắc ca của Trung Quốc ước tính khoảng hơn 16.000 tấn, đạt giá trị khoảng 24 triệu USD. Năm 2014, đã ghi nhận sự gia tăng đáng kể của thị trường Trung Quốc và Đài Loan. Theo thống kê chưa đầy đủ, năm 2014, Trung Quốc đã nhập khẩu 36% lượng mắc ca trên thế giới. Bên cạnh đó, còn rất nhiều thị trường lớn chưa được khai thác như thị trường Ấn Độ, Hàn Quốc, Trung Đông và Việt Nam,...
Nhân mắc ca của Úc trước đây chủ yếu được xuất vào thị trường Mỹ và Cannada, thì nay châu Âu và châu Á đang trở thành thị trường tiêu thụ lớn hơn, giá cả quốc tế vài năm gần đây dao động trong khoảng 13 -14 USD/kg nhân.
Các dự báo thị truờng đều cho rằng, giá nhân mắc ca sẽ còn tăng mạnh trong tương lai. Với giá bán như hiện nay, 1ha mắc ca giá trị đạt tới 2.000 - 3.000 USD. Nếu xét về giá trị kinh tế, không có loại cây nào đủ sức cạnh tranh với mắc ca. Vì vậy, cây mắc ca xứng đáng là sự lựa chọn cây trồng xóa đói giảm nghèo. Trong 10 năm nữa, mắc ca sẽ trở thành cây "tỷ đô".
 

Việt Nam có thể trở thành cường quốc về mắc ca
Nhìn lại thị trường Việt Nam, mắc ca đã được nghiên cứu và trồng thử nghiệm trong hơn 10 năm trở lại đây. Thực tế cho thấy, 1ha cà phê trung bình được 3,8 tấn/năm. Với giá bán khoảng 40.000 đ/kg thu 155 triệu đồng. Trong khi đó, 1ha mắc ca trồng khoảng 360 cây, đến thời điểm 9 năm tuổi thu 5 tấn; với giá chỉ cần 120.000đ/kg đã thu được trên dưới 600 triệu đồng.
Mắc ca cho doanh thu lớn hơn, trong khi chi phí cho phân bón và chăm sóc thấp hơn trồng cà phê (không quá 50.000 đồng/cây/năm, hiệu quả kinh tế gấp 5 lần). Cây mắc ca có thể trồng xen với cà phê sẽ cho hiệu quả kinh tế rất cao. Phương pháp trồng xen cà phê và mắc ca đã được kiểm chứng cho thấy có thể nhanh chóng nhân rộng diện tích mắc ca lên con số hàng trăm nghìn ha mà không cần tốn thêm đất trồng trọt. Như vậy, trong tương lai không xa, Việt Nam sẽ trở thành một cường quốc về mắc ca với hàng trăm nghìn ha mà không cần mở rộng thêm diện tích đất trồng trọt.
Ở Việt Nam, hạt mắc ca hiện có giá 2,5 USD/kg cả vỏ. Thị trường Mỹ, New Zealand, châu Âu có nhu cầu tiêu thụ hạt mắc ca rất lớn, tổng sản lượng mắc ca trên thế giới hiện ở mức khoảng 120.000 tấn, nhưng mới chỉ đáp ứng được 25% nhu cầu thị trường. Hiện kim ngạch các loại hạt của Việt Nam đang tăng mạnh với cơ cấu các loại hạt có nhiều thay đổi.
Mắc ca vẫn là mặt hàng được xuất khẩu nhiều nhất trong thời gian qua, đạt hơn 1,2 triệu USD, chiếm tới 82% tổng kim ngạch hạt xuất khẩu; sản lượng đạt 133,8 nghìn kg.
Hiện nay, diện tích trồng cây mắc ca lấy hạt tại Việt Nam vẫn còn rất hạn chế nên mặt hàng này vẫn được nhập khẩu vào Việt Nam với số lượng lớn và tái xuất trở lại sang các thị trường như Úc, Canada, Đức, Thái Lan, Hà Lan.
Theo dự báo của các chuyên gia, chúng ta có thể phát triển mắc ca thành một ngành sản xuất hàng hóa có quy mô tương đối lớn, diện tích có triển vọng phát triển cây mắc ca có thể đạt tới 200.000 ha. Sản lượng hạt hàng năm có thể đạt bình quân 5 tấn/ha. Phấn đấu ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm mắc ca phát triển đáp ứng nhu cầu của thị trường Mỹ, Nhật, Đức, Trung Quốc,...
Theo đánh giá của ông Nguyễn Trí Ngọc, Viện trưởng Viện nghiên cứu và phát triển công nghệ nông lâm nghiệp Thành Tây, Việt Nam có nhiều điều kiện để có thể trở thành cường quốc về mắc ca.
Bởi, cây mắc ca đang được Chính phủ đặc biệt quan tâm, cụ thể Chính phủ đã ban hành Nghị định 210/2013/NĐ-CP quy định: Các dự án trồng cây mắc ca có quy mô từ 50 ha trở lên được ngân sách nhà nước hỗ trợ 15 triệu đồng/ha để xây dựng đồng ruộng, cây giống,... Và mới đây, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã ban hành thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định trên.
Hiện nay, một số ngân hàng đã và đang triển khai các chương trình tín dụng cho phát triển cây mắc ca, điển hình như gói hỗ trợ 10.000 tỷ đồng do Ngân hàng Bưu điện Liên Việt thực hiện.
Cũng theo ông Ngọc, Việt Nam đã xác định được hai vùng đó là Tây Bắc và Tây Nguyên rất phù hợp thuận lợi cho cây mắc ca sinh trưởng và cho năng suất cao. Tận dụng được thế mạnh này có thể mở ra cơ hội vô cùng lớn cho nông nghiệp Việt Nam./.
(Nguồn: taydo)

Bài đăng phổ biến từ blog này

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu Xuất hiện trong nhiều món ăn quen thuộc và có nhiều tác dụng khác nhau nên lá lốt được trồng ở khắp nơi. Người dân chỉ cần chú ý theo một số kỹ thuật trồng cây dưới đây là có thể tự cung cấp rau cho gia đình. Cây lá lốt có tên khoa học là Piper lolot, thuộc họ  hồ tiêu  (Piperaceae) và có  kỹ thuật trồng cây  rất đơn giản. Lá lốt là loại rau quen thuộc và được dùng phổ biến trong các bữa ăn. Lá lốt thường được sử dụng ăn sống như các loại rau thơm hoặc làm rau gia vị khi nấu canh. Ngoài là rau ăn lá, lá lốt còn là vị thuốc chữa nhiều bệnh, khi dùng có thể dùng tươi, phơi hay sấy khô. Lá lốt có kỹ thuật trồng cây không quá khó Đây là loài cây thảo sống nhiều năm, thân có rãnh dọc. Lá đơn nguyên, mọc so le, hình tim, có màu xanh đậm, mặt lá bóng. Hoa mọc từ nách lá, cụm hoa bông, hoa đực và hoa cái khác gốc. Quả mọng chứa một hạt. Cây thường mọc hoang trong rừng, nơi ẩm ướt dọc các bãi cát ven suối và phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc

Tích cực phòng trừ đạo ôn

Tích cực phòng trừ đạo ôn Dự báo, thời gian tới bệnh đạo ôn hại lá có thể gây hại trên diện rộng. Riêng đối với những diện tích lúa trỗ sớm trong tháng 4, bệnh đạo ôn cổ bông có khả năng phát sinh. (Ánh minh hoạ)   Vụ xuân năm nay, tỉnh Tuyên Quang gieo cấy 20.169 ha lúa, đạt 104,3% kế hoạch. Hiện lúa bước vào giai đoạn đẻ nhánh rộ đến đứng cái làm đòng; tuy nhiên thời tiết diễn biến bất thường, tạo điều kiện cho sâu bệnh phát sinh gây hại rải rác trên một số giống nhiễm như BC 15, HT 1, Bắc thơm số 7, nếp... với diện tích 7 ha tại các huyện Yên Sơn, Sơn Dương, Chiêm Hóa, TP Tuyên Quang..., tỷ lệ bệnh nơi cao 3 - 5 % số lá. Dự báo, thời gian tới bệnh đạo ôn hại lá có thể gây hại trên diện rộng. Riêng đối với những diện tích lúa trỗ sớm trong tháng 4, bệnh đạo ôn cổ bông có khả năng phát sinh.   Anh Vũ Đình Tám, Trưởng trạm BVTV huyện Yên Sơn cho biết, trạm đã phân công cán bộ, bám sát cơ sở phối hợp với khuyến nông hướng dẫn bà con thực hiện bón cân đối NPK, không bón quá nhiều ho

Định hướng dài hạn nhằm thu hút vốn FDI vào nông nghiệp

Định hướng dài hạn nhằm thu hút vốn FDI vào nông nghiệp Ảnh chỉ có tính minh họa. (Ảnh: Lê Bá Liễu/TTXVN) Là ngành có nhiều tiềm năng và lợi thế, song dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng hạn chế so với nhu cầu thu hút vốn và những kỳ vọng. Trong khi đầu tư nước ngoài của cả nước có xu hướng tăng, thì dòng vốn này vào lĩnh vực nông nghiệp lại quá nhỏ về quy mô dự án và tỷ trọng vốn đầu tư so với tổng đầu tư nước ngoài của cả nước. Điều này đang đòi hỏi ngành nông nghiệp phải có một chiến lược, định hướng dài hạn để thu hút vốn FDI. FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn được đặc biệt coi trọng và được khuyến khích để bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp. Với quyết tâm vực dậy nguồn vốn này, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát nhấn mạnh Bộ sẽ rà soát lại cơ chế chính sách để thực sự khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, từ đó tạo m