Chuyển đến nội dung chính

Bộ Nông nghiệp quyết giữ quy định tỷ lệ mạ băng cá tra


Bộ Nông nghiệp quyết giữ quy định tỷ lệ mạ băng cá tra


Trong khi doanh nghiệp phàn nàn quy định tỷ lệ mạ băng không vượt quá 10% là cứng nhắc, gây nhiều khó khăn, thì Bộ Nông nghiệp lại cho là cần thiết nhằm đảm bảo chất lượng hàng xuất khẩu và ngăn ngừa gian lận thương mại.
Nghị định 36/2014 của Chính phủ có hiệu lực đầu năm nay, quy định sản phẩm cá tra phi lê khi xuất khẩu phải có hàm lượng ẩm không vượt quá 83% và tỷ lệ mạ băng (lớp nước đóng băng trên bề mặt sản phẩm) không vượt quá 10%.
Tuy nhiên, hai quy định này đã vấp phải sự phản ứng của nhiều doanh nghiệp. Theo họ, nếu áp đặt mức độ ẩm 83% sẽ phải bán giá cao, dẫn đến hạn chế người mua. Vì vậy, doanh nghiệp kiến nghị nên quy định dán nhãn mạ băng để người tiêu dùng nhận biết chứ không nên áp đặt tỷ lệ 10% vì thị trường nhập khẩu không đòi hỏi. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cho rằng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn nên thí điểm thăm dò thị trường để có lộ trình phù hợp.
Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cũng đề nghị thay đổi hai quy định về hàm lượng ẩm và tỷ lệ mạ băng, coi đó là quy định cứng nhắc, không có căn cứ. Theo VASEP, những vấn đề về chất lượng sản phẩm nên để doanh nghiệp và thị trường quyết định.
Bộ Nông nghiệp cho rằng quy định tỷ lệ mã băng không quá 10% sẽ từng bước giúp doanh nghiệp nâng cao chất lượng và đảm bảo phát triển bền vững sản phẩm cá tra Việt Nam" . Ảnh: Minh Đoàn.
Bộ Nông nghiệp cho rằng quy định tỷ lệ mạ băng không quá 10% sẽ từng bước giúp doanh nghiệp nâng cao chất lượng và đảm bảo phát triển bền vững sản phẩm cá tra Việt Nam. Ảnh: Minh Đoàn.

Từ thực tế trên, Bộ Nông nghiệp vừa có văn bản gửi Tỉnh ủy An Giang và UBND một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, khẳng định hai quy định trong Nghị định 36 là cần thiết.
Theo Bộ, Nghị định 36 quy định tỷ lệ mạ băng đối với sản phẩm phi lê cá tra xuất khẩu phù hợp quy định của các nước nhập khẩu. Các trường hợp ở nước nhập khẩu không quy định thì áp dụng không quá 10%. Như vậy, không phải mọi trường hợp đều quy định tỷ lệ mạ băng là 10%. "Mục đích của công nghệ mạ băng là để bảo vệ sản phẩm nhằm giảm thiểu khả năng mất nước (cháy lạnh) gây suy giảm chất lượng sản phẩm trong quá trình bảo quản đông lạnh", văn bản do Thứ trưởng Lê Văn Tám nêu rõ.
Theo hướng dẫn của Ủy ban Thực phẩm quốc tế (CODEX), tỷ lệ mạ băng để đạt mục tiêu công nghệ thông thường không quá 5%. Do đó, Bộ Nông nghiệp cho rằng, quy định tỷ lệ mạ băng không được vượt quá 10% là cần thiết, phù hợp và đủ linh hoạt cho các doanh nghiệp trong chế biến sản phẩm cá tra phi lê đông lạnh chất lượng tốt để xuất khẩu và ngăn ngừa gian lận thương mại.
Về quy định hàm lượng nước trong cá tra không vượt quá 83% mà doanh nghiệp cho là thiếu cơ sở khoa học, Bộ Nông nghiệp đã chỉ đạo Cục Quản lý Chất lượng nông lâm và thủy sản triển khai đề tài khoa học cấp cơ sở nghiên cứu bổ sung về hàm lượng nước trong cá tra phi lê đông lạnh. 
Kết quả cho thấy, việc sử dụng phụ gia nhóm phosphate là được phép theo quy định của CODEX để cải thiện chất lượng cảm quan, chống mất nước sau rã đông. Sử dụng phụ gia vừa đủ, tương ứng với hàm lượng nước là 83% và tỷ lệ tăng trọng 15% là đạt mục đích cải thiện chất lượng cảm quan, chống mất nước khi rã đông.
Còn nếu lạm dụng phụ gia đến hàm lượng nước là 85% - 86% thì tỷ lệ tăng trọng sẽ tương ứng từ 35% đến hơn 40%. Kết quả này có thể bị coi là gian lận thương mại, làm suy giảm chất lượng sản phẩm cá tra phi lê, bán giá thành thấp và dẫn đến nguy cơ cá tra Việt Nam bị cáo buộc, áp thuế chống bán phá giá tại các thị trường. Điều này tương tự với việc chấp nhận bơm tạp chất vào tôm và bơm nước vào gia súc trước khi giết mổ.
"Quy định tỷ lệ mạ băng tối đa không quá 10% và hàm lượng nước tối đa trong cá tra phi lê đông lạnh không quá 83% (tương ứng với mức tăng trọng là 15%) là có đủ độ tin cậy, cơ sở khoa học và thực tiễn để từng bước nâng cao chất lượng, đảm bảo phát triển bền vững sản phẩm cá tra Việt Nam", văn bản do Thứ trưởng Lê Văn Tám ký kết luận.
Theo Bộ, việc không kiểm soát chất lượng và để tự doanh nghiệp kê khai đã diễn ra trước khi có Nghị định 36 và dẫn đến khủng hoảng toàn diện như thời gian qua.
Tuy nhiên, để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, Bộ Nông nghiệp vẫn đề xuất và được Chính phủ đồng ý đưa vào Nghị quyết  phiên họp thường kỳ tháng 12/2014 về việc chưa thực hiện các quy định về hàm lượng nước và tỷ lệ mạ băng đến hết ngày 31/12/2015.
Hiện Bộ Nông nghiệp đã phối hợp với Bộ Công Thương, Hiệp hội cá tra Việt Nam và VASEP trao đổi kế hoạch triển khai thực hiện Nghị định 36.
Đến hết ngày 20/12/2014, theo báo cáo của các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu cá tra vẫn còn một lượng lớn sản phẩm chưa đáp ứng quy định của Nghị định 36 về tỷ lệ mạ băng, hàm lượng nước tối đa. Theo con số tự kê khai của các doanh nghiệp thì hàng tồn kho là trên 360.000 tấn, nhưng sau khi Bộ tổ chức 11 đoàn kiểm tra thực tế cuối tháng 12/2014 thì lượng hàng tồn là khoảng 150.000 tấn.
(Nguồn: taydo)

Bài đăng phổ biến từ blog này

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu Xuất hiện trong nhiều món ăn quen thuộc và có nhiều tác dụng khác nhau nên lá lốt được trồng ở khắp nơi. Người dân chỉ cần chú ý theo một số kỹ thuật trồng cây dưới đây là có thể tự cung cấp rau cho gia đình. Cây lá lốt có tên khoa học là Piper lolot, thuộc họ  hồ tiêu  (Piperaceae) và có  kỹ thuật trồng cây  rất đơn giản. Lá lốt là loại rau quen thuộc và được dùng phổ biến trong các bữa ăn. Lá lốt thường được sử dụng ăn sống như các loại rau thơm hoặc làm rau gia vị khi nấu canh. Ngoài là rau ăn lá, lá lốt còn là vị thuốc chữa nhiều bệnh, khi dùng có thể dùng tươi, phơi hay sấy khô. Lá lốt có kỹ thuật trồng cây không quá khó Đây là loài cây thảo sống nhiều năm, thân có rãnh dọc. Lá đơn nguyên, mọc so le, hình tim, có màu xanh đậm, mặt lá bóng. Hoa mọc từ nách lá, cụm hoa bông, hoa đực và hoa cái khác gốc. Quả mọng chứa một hạt. Cây thường mọc hoang trong rừng, nơi ẩm ướt dọc các bãi cát ven suối và phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc

Tích cực phòng trừ đạo ôn

Tích cực phòng trừ đạo ôn Dự báo, thời gian tới bệnh đạo ôn hại lá có thể gây hại trên diện rộng. Riêng đối với những diện tích lúa trỗ sớm trong tháng 4, bệnh đạo ôn cổ bông có khả năng phát sinh. (Ánh minh hoạ)   Vụ xuân năm nay, tỉnh Tuyên Quang gieo cấy 20.169 ha lúa, đạt 104,3% kế hoạch. Hiện lúa bước vào giai đoạn đẻ nhánh rộ đến đứng cái làm đòng; tuy nhiên thời tiết diễn biến bất thường, tạo điều kiện cho sâu bệnh phát sinh gây hại rải rác trên một số giống nhiễm như BC 15, HT 1, Bắc thơm số 7, nếp... với diện tích 7 ha tại các huyện Yên Sơn, Sơn Dương, Chiêm Hóa, TP Tuyên Quang..., tỷ lệ bệnh nơi cao 3 - 5 % số lá. Dự báo, thời gian tới bệnh đạo ôn hại lá có thể gây hại trên diện rộng. Riêng đối với những diện tích lúa trỗ sớm trong tháng 4, bệnh đạo ôn cổ bông có khả năng phát sinh.   Anh Vũ Đình Tám, Trưởng trạm BVTV huyện Yên Sơn cho biết, trạm đã phân công cán bộ, bám sát cơ sở phối hợp với khuyến nông hướng dẫn bà con thực hiện bón cân đối NPK, không bón quá nhiều ho

Định hướng dài hạn nhằm thu hút vốn FDI vào nông nghiệp

Định hướng dài hạn nhằm thu hút vốn FDI vào nông nghiệp Ảnh chỉ có tính minh họa. (Ảnh: Lê Bá Liễu/TTXVN) Là ngành có nhiều tiềm năng và lợi thế, song dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng hạn chế so với nhu cầu thu hút vốn và những kỳ vọng. Trong khi đầu tư nước ngoài của cả nước có xu hướng tăng, thì dòng vốn này vào lĩnh vực nông nghiệp lại quá nhỏ về quy mô dự án và tỷ trọng vốn đầu tư so với tổng đầu tư nước ngoài của cả nước. Điều này đang đòi hỏi ngành nông nghiệp phải có một chiến lược, định hướng dài hạn để thu hút vốn FDI. FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn được đặc biệt coi trọng và được khuyến khích để bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp. Với quyết tâm vực dậy nguồn vốn này, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát nhấn mạnh Bộ sẽ rà soát lại cơ chế chính sách để thực sự khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, từ đó tạo m