10 mặt hàng nông nghiệp có kim ngạch xuất khẩu vượt 1 tỷ USD
Mặt hàng rau quả Việt Nam có nhiều cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước trên thế giới. (Ảnh: Kim Phương/TTXVN)
Theo thông tin từ Bộ Nông nghiệp và Phát trển Nông thôn, năm 2014, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản của toàn ngành nông nghiệp đạt 30,86 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm 2013. Trong số đó, có đến 10 mặt hàng đóng góp kim ngạch xuất khẩu vượt ngưỡng trên 1 tỷ USD gồm: gạo, càphê, tôm, cao su, điều, tiêu, sắn, rau quả, cá tra, lâm sản.
Đặc biệt, một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh như rau quả tăng 34,9%, hồ tiêu tăng 34,1%, càphê tăng 32,2%, hạt điều tăng 21,1%, thủy sản tăng 18%, lâm sản và đồ gỗ tăng 12,7%, gạo tăng 5,3% (không kể tiểu ngạch).
Kết quả cụ thể một số mặt hàng chủ yếu như sau:
1. Gỗ và sản phẩm gỗ:
Ước giá trị xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ tháng 12 đạt 655 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu năm 2014 đạt 6,21 tỷ USD, tăng 11,1% so với năm 2013. Đây là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đứng đầu cả nước.
Xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ 11 tháng đầu năm sang hầu hết các thị trường chính đều tăng, Hoa Kỳ và Nhật Bản có mức tăng trưởng lần lượt là 12,47% và 17,06% so với cùng kỳ năm 2013. Hoa Kỳ,Trung Quốc và Nhật Bản là 3 thị trường nhập khẩu gỗ lớn nhất của Việt Nam trong 11 tháng đầu năm 2014, chiếm 66,21% tổng giá trị xuất khẩu của mặt hàng này.
2. Tôm:
Năm 2014, tiếp tục tận dụng bối cảnh sản xuất tôm tại các nước Thái Lan, Trung Quốc chưa hồi phục, Tổng cục Thủy sản đã chỉ đạo các địa phương tiếp tục phát triển mạnh nuôi tôm chân trắng, tôm vụ 3 thâm canh ở những vùng phù hợp. Do đó, năm 2014, sản lượng thu hoạch tôm đều tăng so với cùng kỳ, ngành nuôi tôm cả nước có sự phát triển vượt bậc.
Đặc biệt, năm nay tôm là mặt hàng được giá, đem lại siêu lợi nhuận và là nguồn thu kim ngạch đáng kể với gần 4,0 tỷ USD. Tính đến trung tuần tháng 11/2014 mặt hàng tôm vẫn duy trì được nhịp độ tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm 2013 với mức tăng chung tới 32,9%, đạt giá trị 3,51 tỷ USD, chiếm trên 50% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản đến nửa đầu tháng 11 năm 2014.
3. Càphê:
Tháng 12 năm 2014 xuất khẩu cà phê ước đạt 168 nghìn tấn với giá trị đạt 338 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu cà phê năm 2014 ước đạt 1,73 triệu tấn và 3,62 tỷ USD, tăng 33,4% về khối lượng và tăng 32,2% về giá trị so năm 2013.
Giá càphê xuất khẩu bình quân 11 tháng đầu năm đạt 2.096 USD/tấn, hai thị trường tiêu thụ càphê lớn nhất của Việt Nam trong 11 tháng đầu năm 2014 là Đức và Hoa Kỳ tiếp tục là với thị phần lần lượt là 13,65% và 10,02%. Thị trường Bỉ có tốc độ tăng mạnh nhất, gấp 2,57 lần về khối lượng và gấp 2,4 lần về giá trị so với cùng kỳ năm 2013.
4. Gạo:
Ước năm nay nước ta xuất khẩu được 6,52 triệu tấn gạo với giá trị xuất khẩu là 3,04 tỷ USD, tương đương lượng xuất khẩu năm 2013 nhưng lại tăng 1,9% về giá trị so với năm 2013. Giá gạo xuất khẩu bình quân 11 tháng đầu năm 2014 đạt 463 USD/tấn, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2013.
Thị trường lớn nhất trong 11 tháng đầu năm 2014 là Trung Quốc với 31,1% thị phần. Đáng chú ý nhất là thị trường Philippines có sự tăng trưởng đột biến trong 11 tháng đầu năm với mức tăng gấp 3,68 lần về khối lượng và gấp 3,74 lần về giá trị so với cùng kỳ năm 2013.
5. Hạt điều:
Năm nay ngành điều xuất khẩu khoảng 306 nghìn tấn với 2 tỷ USD kim ngạch, tăng 17,4% về khối lượng và tăng 21,9% về giá trị so với năm 2013. Giá hạt điều xuất khẩu bình quân 11 tháng đầu năm 2014 đạt 6.553 USD/tấn, tăng 3,81% so với cùng kỳ năm 2013.
Hoa Kỳ, Trung Quốc và Hà Lan vẫn duy trì là 3 thị trường nhập khẩu điều lớn nhất của Việt Nam chiếm lần lượt 32,5%, 15% và 11,23% tổng giá trị xuất khẩu.
6. Cao su:
Cả năm 2014 xuất khẩu cao su ước đạt 1,07 triệu tấn với giá trị đạt 1,8 tỷ USD, tăng 0,2% về khối lượng nhưng lại giảm 27,7% về giá trị so với năm 2013. Giá cao su xuất khẩu bình quân 11 tháng đầu năm 2014 đạt 1.695 USD/tấn, giảm 27,3% so với cùng kỳ năm 2013.
Mặc dù Trung Quốc và Malaysia vẫn duy trì là thị trường tiêu thụ cao su lớn nhất của Việt Nam trong 11 tháng đầu năm 2014, nhưng lại có xu hướng giảm so với cùng kỳ năm 2013, cụ thể: Trung Quốc giảm 5% về khối lượng và giảm 30% về giá trị; Malaysia giảm 7% về khối lượng và giảm 37% về giá trị.
7. Cá tra:
Tổng giá trị xuất khẩu mặt hàng cá tra cả năm 2014 vào khoảng 1,8 tỷ USD, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm 2013. Giá trị xuất khẩu sang 2 thị trường xuất khẩu lớn nhất là EU và Mỹ đều lần lượt tăng 31,4% và giảm 7% so với nửa đầu tháng 11 năm 2013. Tính từ đầu năm đến 15/11/2014, giá trị xuất khẩu mặt hàng này sang ASEAN và Brazil lần lượt tăng trưởng 11,1% và 14,2% so với cùng kỳ năm 2013.
8. Rau quả:
Với tốc độ tăng trưởng cao như hiện nay (tăng 34,9%), xuất khẩu rau quả có thể mang về cho Việt Nam khoảng 1,47 tỷ USD. Đây là con số cao nhất từ trước đến nay.
Tính đến hết quý Ba năm 2014, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc vẫn là ba thị trường lớn nhập khẩu mặt hàng rau quả của Việt Nam. Mặt hàng rau quả Việt Nam có nhiều cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước trên thế giới. Đặc biệt, hiện thị trường phía Hoa Kỳ đã mở cho Việt Nam xuất khẩu thanh long, chôm chôm, nhãn và vải thiều.
9. Tiêu:
Khối lượng xuất khẩu tiêu cả năm 2014 vào khoảng 158.000 tấn với giá trị 1,2 tỷ USD, tăng 19,3% về khối lượng và tăng 35,9% về giá trị so với năm 2013. Giá tiêu xuất khẩu bình quân 11 tháng đầu năm 2014 đạt 7.679 USD/tấn, tăng 14,76% so với cùng kỳ năm 2013.
Xuất khẩu tiêu sang thị trường Hoa Kỳ, Singapore, Tiểu vương quốc Arập Thống Nhất, Ấn Độ và Hà Lan - 5 thị trường lớn nhất nhất của Việt Nam trong 11 tháng đầu năm 2014 chiếm 50% tổng xuất khẩu của mặt hàng này.
Thị trường Hoa Kỳ tăng 21,7% về khối lượng và tăng 37,8% về giá trị; Singapore tăng 47% về khối lượng và 84,3% về giá trị, Tiểu Vương Quốc Arập Thống Nhất tăng 33% về khối lượng và tăng 56,5% về giá trị. Thị trường Ấn Độ tăng 88% về khối lượng và 2,19 lần về giá trị so với cùng kỳ năm 2013.
10. Sắn và các sản phẩm từ sắn:
Khối lượng xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn trong tháng 12 ước đạt 301 nghìn tấn, với giá trị đạt 102 triệu USD đưa tổng khối lượng xuất khẩu mặt hàng này năm 2014 đạt 3,29 triệu tấn với giá trị đạt 1,12 tỷ USD, tăng 5,4% về khối lượng và tăng 2,6% về giá trị so cùng kỳ năm 2013.
(Nguồn: taydo)