Chuyển đến nội dung chính

Khảo nghiệm giống lúa chịu hạn: Tín hiệu vui

Khảo nghiệm giống lúa chịu hạn: Tín hiệu vui


Chi cục Bảo vệ thực vật (BVTV) tỉnh Khánh Hòa đang thực hiện khảo nghiệm các giống lúa chịu hạn (GLCH) theo đơn đặt hàng của Viện BVTV. Đây là tín hiệu vui cho các vùng sản xuất lúa bấp bênh, nhất là tại 2 huyện miền núi Khánh Sơn và Khánh Vĩnh.

Đang khảo nghiệm

Vụ Hè Thu năm nay, Chi cục BVTV triển khai khảo nghiệm 2 GLCH là LCH-37, LC 93-2 tại 2 xã Vĩnh Hiệp và Vĩnh Thạnh (TP. Nha Trang) với diện tích 1.500m2. Hiện nay, các ruộng khảo nghiệm lúa đang phát triển tốt, các giống này đều sản xuất theo quy trình 1 phải, 5 giảm.

Năm 2013, khi thực hiện Đề tài “Nghiên cứu, đánh giá, tuyển chọn và khảo nghiệm bộ GLCH thích ứng với vùng duyên hải miền Trung chịu ảnh hưởng bất lợi của biến đổi khí hậu”, Viện BVTV đã chọn tỉnh Khánh Hòa làm điểm. Bộ giống lúa gồm 6 giống, được đánh mã số từ 1 đến 6 do Viện BVTV cung cấp và giống VD 20 (giống lúa thuần của địa phương) được chọn làm giống đối chứng. Mục tiêu của Đề tài là chọn ra GLCH ngắn ngày, có chất lượng thích hợp với điều kiện tự nhiên của vùng duyên hải miền Trung, nhằm thay thế những giống lúa thịt cũ, thoái hóa, nhiễm sâu bệnh...
 
Tin-hieu-vui.jpg
Theo dõi sinh trưởng của giống lúa chịu hạn tại xã Vĩnh Hiệp.

Kỹ sư Lê Quang Vịnh - chủ nhiệm Đề tài cho biết, kết quả khảo nghiệm được đánh giá đầy đủ các yêu cầu trên 6 giống lúa. Về sinh trưởng: các giống tham gia khảo nghiệm đều có khả năng tốt, chịu hạn cao so với giống đối chứng, phù hợp với tập quán canh tác tại địa phương. Về chống đổ ngã: do thời tiết bất lợi, mưa kèm gió to nên lúa đổ ngã nhiều trong giai đoạn thu hoạch. Trong đó, giống số 6 đổ ngã nhiều nhất với 10%, giống số 1: 8%, giống số 5: 6%. Riêng giống đối chứng đổ ngã 15%. Về khả năng chịu hạn: các giống khảo nghiệm bị chủ động cắt nước tạo khô hạn nhưng vẫn sinh trưởng, phát triển tốt, có năng suất cao hơn giống đối chứng. Hầu hết các giống có thời gian sinh trưởng tương đương so với giống đối chứng. Về khả năng chống chịu sâu bệnh: Các giống đều nhiễm sâu bệnh, nhất là nhiễm rầy. Trong đó, giống số 1 mẫn cảm mạnh nhất với thời tiết và sâu bệnh. Giống số 4 có khả năng chống chịu sâu bệnh tốt nhất. Về năng suất: các giống đều có năng suất cao hơn giống đối chứng từ 0,8 đến 3 tạ/ha; trừ giống số 2 và 3 có năng suất thấp hơn. Về chất lượng gạo: các giống số 1, 4, 5 và 6 cho chất lượng cơm dẻo, sáng, gạo nở nhiều; riêng giống số 2, 3 có chất lượng cơm cứng, khô, gạo nở nhiều, màu gạo tối.

Từ kết quả trên, Chi cục BVTV đã đề nghị Viện BVTV tiếp tục đưa vào khảo nghiệm các GLCH. Năm 2014, Đề tài được Viện BVTV cho phép triển khai tiếp tục. Các giống được gỡ bỏ mã số, thay vào đó là tên giống gồm: giống LCH 37 (lúa chịu hạn) và LC 93-2 (lúa cạn).

Triển vọng cho các vùng thiếu nước tưới

Khánh Hòa có diện tích lúa cả năm hơn 42.000ha, năng suất trung bình hơn 52 tạ/ha, sản lượng hơn 245.000 tấn. Trong đó, vụ Đông Xuân xấp xỉ 20.000ha, chiếm 42,3% tổng diện tích cả năm, năng suất trung bình 55,85 tấn/ha; vụ Hè Thu hơn 19.000ha, chiếm 40,6% tổng diện tích cả năm, năng suất 55,59 tạ/ha. Ngoài ra, còn có lúa vụ mùa hơn 8.000ha, năng suất trung bình 35,82 tạ/ha.

Theo ông Vịnh, hiện tại, các vùng sản xuất lúa trong tỉnh đều đứng trước thách thức như: năng suất bấp bênh, không ổn định do thời tiết, khí hậu biến đổi thất thường, nhất là hạn hán đã ảnh hưởng nặng nề và trực tiếp vào cuối vụ Đông Xuân, đầu Hè Thu, tác động chủ yếu vào thời kỳ làm đòng đến chắc hạt (vụ Đông Xuân) và thời kỳ gieo sạ đến làm đòng, trổ bông, chắc hạt (vụ Hè Thu) làm ảnh hưởng đến lép hạt và mẩy hạt. Từ đó, làm giảm năng suất lúa.  

Việc khảo nghiệm cũng như sản xuất GLCH không phải bây giờ mới tiến hành. Theo kỹ sư Trịnh Thị Thùy Linh - Chi cục trưởng Chi cục BVTV, từ năm 1999 đến năm 2005, Khánh Hòa là địa phương sản xuất giống nguyên chủng GLCH (khoảng 30 - 50ha, sản lượng hàng trăm tấn/năm) để Viện BVTV cung cấp cho cả nước. Các giống chịu hạn được sản xuất gồm: LC 93-1, LC 93-2, LC 93-4. Một số khu vực sản xuất bị thiếu nước như: xã Vĩnh Ngọc (TP. Nha Trang), xã Ninh Sơn (thị xã Ninh Hòa) đã sản xuất các GLCH.

Thời gian tới, Chi cục BVTV sẽ đề nghị với Viện BVTV tiếp tục triển khai, nhân rộng các GLCH tại Khánh Hòa, làm tiền đề chủ động nguồn GLCH thích ứng với biến đổi khí hậu, phù hợp với điều kiện các vùng trồng lúa bấp bênh, đặc biệt là 2 huyện miền núi Khánh Sơn và Khánh Vĩnh để nâng cao năng suất, sản lượng, chống chịu trong điều kiện bất lợi, khô hạn, thiếu nước tưới...
(Nguồn: baokhanhhoa.com.vn)

Bài đăng phổ biến từ blog này

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu Xuất hiện trong nhiều món ăn quen thuộc và có nhiều tác dụng khác nhau nên lá lốt được trồng ở khắp nơi. Người dân chỉ cần chú ý theo một số kỹ thuật trồng cây dưới đây là có thể tự cung cấp rau cho gia đình. Cây lá lốt có tên khoa học là Piper lolot, thuộc họ  hồ tiêu  (Piperaceae) và có  kỹ thuật trồng cây  rất đơn giản. Lá lốt là loại rau quen thuộc và được dùng phổ biến trong các bữa ăn. Lá lốt thường được sử dụng ăn sống như các loại rau thơm hoặc làm rau gia vị khi nấu canh. Ngoài là rau ăn lá, lá lốt còn là vị thuốc chữa nhiều bệnh, khi dùng có thể dùng tươi, phơi hay sấy khô. Lá lốt có kỹ thuật trồng cây không quá khó Đây là loài cây thảo sống nhiều năm, thân có rãnh dọc. Lá đơn nguyên, mọc so le, hình tim, có màu xanh đậm, mặt lá bóng. Hoa mọc từ nách lá, cụm hoa bông, hoa đực và hoa cái khác gốc. Quả mọng chứa một hạt. Cây thường mọc hoang trong rừng, nơi ẩm ướt dọc các bãi cát ven suối và phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc

Tích cực phòng trừ đạo ôn

Tích cực phòng trừ đạo ôn Dự báo, thời gian tới bệnh đạo ôn hại lá có thể gây hại trên diện rộng. Riêng đối với những diện tích lúa trỗ sớm trong tháng 4, bệnh đạo ôn cổ bông có khả năng phát sinh. (Ánh minh hoạ)   Vụ xuân năm nay, tỉnh Tuyên Quang gieo cấy 20.169 ha lúa, đạt 104,3% kế hoạch. Hiện lúa bước vào giai đoạn đẻ nhánh rộ đến đứng cái làm đòng; tuy nhiên thời tiết diễn biến bất thường, tạo điều kiện cho sâu bệnh phát sinh gây hại rải rác trên một số giống nhiễm như BC 15, HT 1, Bắc thơm số 7, nếp... với diện tích 7 ha tại các huyện Yên Sơn, Sơn Dương, Chiêm Hóa, TP Tuyên Quang..., tỷ lệ bệnh nơi cao 3 - 5 % số lá. Dự báo, thời gian tới bệnh đạo ôn hại lá có thể gây hại trên diện rộng. Riêng đối với những diện tích lúa trỗ sớm trong tháng 4, bệnh đạo ôn cổ bông có khả năng phát sinh.   Anh Vũ Đình Tám, Trưởng trạm BVTV huyện Yên Sơn cho biết, trạm đã phân công cán bộ, bám sát cơ sở phối hợp với khuyến nông hướng dẫn bà con thực hiện bón cân đối NPK, không bón quá nhiều ho

Định hướng dài hạn nhằm thu hút vốn FDI vào nông nghiệp

Định hướng dài hạn nhằm thu hút vốn FDI vào nông nghiệp Ảnh chỉ có tính minh họa. (Ảnh: Lê Bá Liễu/TTXVN) Là ngành có nhiều tiềm năng và lợi thế, song dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng hạn chế so với nhu cầu thu hút vốn và những kỳ vọng. Trong khi đầu tư nước ngoài của cả nước có xu hướng tăng, thì dòng vốn này vào lĩnh vực nông nghiệp lại quá nhỏ về quy mô dự án và tỷ trọng vốn đầu tư so với tổng đầu tư nước ngoài của cả nước. Điều này đang đòi hỏi ngành nông nghiệp phải có một chiến lược, định hướng dài hạn để thu hút vốn FDI. FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn được đặc biệt coi trọng và được khuyến khích để bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp. Với quyết tâm vực dậy nguồn vốn này, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát nhấn mạnh Bộ sẽ rà soát lại cơ chế chính sách để thực sự khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, từ đó tạo m