Chuyển đến nội dung chính

Lãng phí phụ phẩm nông nghiệp trồng nấm

Lãng phí phụ phẩm nông nghiệp trồng nấm


Nước ta có một lượng phụ phẩm có khả năng trồng nấm khá lớn như: rơm rạ, bã mía, mùn cưa… Tuy nhiên, thời gian qua chỉ một lượng nhỏ phụ phẩm này được dùng để trồng nấm. Sản lượng nấm cả nước chỉ đạt 250.000 tấn/năm, không đủ phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Lang-phi-phu-pham-nong-nghiep-trong-nam-(1).jpg
ảnh minh họa
 
Quy mô sản xuất nhỏ lẻ
Mặc dù vùng ĐBSCL có điều kiện khí hậu thích hợp, nguồn nguyên vật liệu, nguồn nhân lực dồi dào, nhưng đến nay sản xuất nấm ở các địa phương này còn manh mún. Hiện nay, mỗi tỉnh, thành đều có ít nhất vài chục cơ sở trồng nấm, thậm chí có địa phương còn có hàng trăm cơ sở trồng nấm nhưng hầu hết các cơ sở trồng nấm này đều tồn tại ở dạng nhỏ lẻ.
Theo Cục Trồng trọt, hiện doanh nghiệp sản xuất nấm lớn nhất cả nước cũng chỉ có diện tích khoảng 8.000m2, còn những doanh nghiệp còn lại có diện tích bình quân khoảng 4.000m2. Đối với các cơ sở sản xuất nấm gia đình thì diện tích chỉ vài chục mét vuông nên việc thu gom đủ lượng nấm đảm bảo chất lượng và đủ số lượng để đáp ứng các đơn hàng xuất khẩu trong thời gian dài là rất khó.
Mặt khác, đến nay Việt Nam cũng chưa có nhiều nhà máy chế biến nấm đạt tiêu chuẩnnên xuất khẩu nấm Việt Nam còn khiêm tốn. Theo ông Phạm Văn Dư, Cục phó Cục Trồng trọt, trong những năm qua giá xuất khẩu nấm rơm muối của Việt Nam liên tục tăng cao. Cụ thể, giá xuất khẩu năm 2011 chỉ có 1.800 USD/tấn đã tăng lên 2.000 USD/tấn trong năm 2012 và đạt gần 2.500 USD/tấn trong năm 2013. Điều này cho thấy việc đầu tư mở rộng diện tích trồng nấm, cũng như xây dựng các nhà máy chế biến nấm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu có hiệu quả ngày càng cao.
Hàng năm, các nước trên thế giới cần tiêu thụ lượng nấm khoảng 20 triệu tấn với tốc độ tăng trưởng bình quân 3,5%/năm, trong đó các nước tiêu thụ nấm hàng đầu là Mỹ, Nhật, Đài Loan và các nước châu Âu. Đây là những cơ hội tốt để Việt Nam hoàn thành mục tiêu đưa kim ngạch xuất khẩu nấm đến năm 2015 đạt 150 - 200 triệu USD.
 
Nhiều lợi thế cạnh tranh
Nghề trồng nấm ở ĐBSCL chỉ thực sự phát triển khi thị trường xuất khẩu được khơi thông. Từ cuối những năm 80, xuất khẩu nấm chỉ đạt sản lượng khoảng 2.500 tấn thì đến năm 2002 đã đạt 40.000 ngàn tấn với giá trị dạt 40 triệu USD. Bên cạnh sự gia tăng xuất khẩu nấm rơm, nhu cầu tiêu dùng nấm nội địa cũng ngày càng lên cao.
Theo một doanh nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu ở Cần Thơ, xuất khẩu nấm của nước ta gặp nhiều đối thủ cạnh tranh nhưng nhờ kỹ thuật chế biến giữ được chất lượng, phân loại thành từng cỡ đồng đều nên được khách hàng ưa chuộng. Hơn nửa, mùa vụ nấm ở Việt Nam cũng không trùng với những nước sản xuất nấm rơm lớn trong khu vực.
ĐBSCL không chỉ có nấm rơm, còn nhiều thứ vật liệu khác như mùn cưa, bã mía có thể trồng các loại nấm từ bình dân bán chợ đến cao cấp bán trong siêu thị như: nấm bào ngư, nấm kim châm, nấm trân châu, nấm mèo, linh chi…, trong đó các loại nấm cao cấp như: nấm kim châm, nấm ngọc bích, nấm đùi gà vua là những nấm ăn thơm ngon, hàm lượng protein cao gấp 3 - 6 lần so với các loại rau củ thông thường, chứa nhiều vitamin, chất khoáng và các loại acid amin thiết yếu nên có giá trị kinh tế rất cao.
Để giúp người trồng nấm tiếp cận dễ dàng với các loại nấm có giá trị cao, Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng và Dịch vụ Khoa học công nghệ tỉnh Tiền Giang đã tiến hành phân lập và thuần dưỡng được giống nấm kim châm, nấm đùi gà vua, nấm ngọc bích có nguồn gốc ngoại nhập và xác lập được quy trình, môi trường phân lập, môi trường nhân giống có thể áp dụng trong sản xuất. Đồng thời, Trung tâm cũng tìm ra được công thức trồng các loại nấm này trên nguyên liệu là mùn cưa hoặc mùn cưa phối trộn bả mía.
Từ nghề trồng nấm rơm, nông dân nhiều vùng nông thôn ở ĐBSCL đã biết tận dụng các phụ phẩm nông nghiệp bỏ đi để trồng nấm. Trồng nấm đơn giản, dễ làm nên đây được coi là nghề xóa đói giảm nghèo ở địa phương đối với hộ trồng nấm quy mô nhỏ, còn đối với những hộ có điều kiện tốt hơn thì có thể làm giàu với nghề trồng nấm.
TS Trần Nhân Dũng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ sinh học (Đại học Cần Thơ) cho biết, vùng ĐBSCL có điều kiện khí hậu nhiệt đới nên việc đầu tư trồng nấm rất thuận lợi và có nhiều tiềm năng phát triển trong tương lai. Thời gian qua, Viện đã hoàn thành nghiên cứu một số dòng meo nấm địa phương và thực hiện chuyển giao kỹ thuật trồng nấm rơm, nấm mèo, nấm bào ngư cho một số địa phương ở Sóc Trăng, Đồng Tháp.
 
(Tin tức nguồn: xaluan.com)

Bài đăng phổ biến từ blog này

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu Xuất hiện trong nhiều món ăn quen thuộc và có nhiều tác dụng khác nhau nên lá lốt được trồng ở khắp nơi. Người dân chỉ cần chú ý theo một số kỹ thuật trồng cây dưới đây là có thể tự cung cấp rau cho gia đình. Cây lá lốt có tên khoa học là Piper lolot, thuộc họ  hồ tiêu  (Piperaceae) và có  kỹ thuật trồng cây  rất đơn giản. Lá lốt là loại rau quen thuộc và được dùng phổ biến trong các bữa ăn. Lá lốt thường được sử dụng ăn sống như các loại rau thơm hoặc làm rau gia vị khi nấu canh. Ngoài là rau ăn lá, lá lốt còn là vị thuốc chữa nhiều bệnh, khi dùng có thể dùng tươi, phơi hay sấy khô. Lá lốt có kỹ thuật trồng cây không quá khó Đây là loài cây thảo sống nhiều năm, thân có rãnh dọc. Lá đơn nguyên, mọc so le, hình tim, có màu xanh đậm, mặt lá bóng. Hoa mọc từ nách lá, cụm hoa bông, hoa đực và hoa cái khác gốc. Quả mọng chứa một hạt. Cây thường mọc hoang trong rừng, nơi ẩm ướt dọc các bãi cát ven suối và phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc

Những cây trồng mang lợi nhuận tỷ đô tại Việt Nam

Những cây trồng mang lợi nhuận tỷ đô tại Việt Nam Thị trường giống cây trồng Việt Nam có nhiều biến động mạnh trong suốt nhiều năm qua, đặc biệt là giống cây trồng các loại hạt được liệt vào danh sách siêu thực phẩm, cho giá trị kinh tế hàng tỷ USD. Cao lương Cây cao lương hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao lên tới hàng tỷ USD Cây cao lương vốn không còn là loại cây xa lạ với người Việt Nam, từ những năm 70, 80 của thế kỷ trước người dân đã tròng nhiều và dung làm lương thực thay thế gạo lúc đói kém.   Sau hàng chục năm không mang lại hiệu quả gì về kinh tế thì Tập đoàn Sol Holding (Nhật Bản) đã mang giống cao lương trở lại Việt Nam với nhiều hứa hẹn hấp dẫn về giá trị kinh tế. Theo ý kiến từ công ty này, đây là giống cây siêu cao lương được các nhà khoa học Nhật Bản lai tạo đưa lại năng suất cao và đáp ứng nhiều mục đích khác nhau. Ngoài mục đích làm thức ăn chăn nuôi, chúng còn được sử dụng để chế biến viên nén sinh

Chăn nuôi nông hộ giúp gì cho nông dân?

Chăn nuôi nông hộ giúp gì cho nông dân? Nhiều hộ dân xã An Dương (Tân Yên, Bắc Giang) đầu tư phát triển chăn nuôi đạt hiệu quả kinh tế cao. LTS - Tiếp tục cuộc thi viết về: "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn" do Báo Nhân Dânphối hợp Hội Nông dân Việt Nam và Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất dầu khí (Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam) tổ chức, bắt đầu từ hôm nay (17-4), chúng tôi sẽ lần lượt đăng các bài gửi tham dự cuộc thi năm 2014 với chủ đề: "Tái cơ cấu nông nghiệp, gắn với xây dựng nông thôn mới". Rất mong nhận được sự cộng tác của các cộng tác viên và bạn đọc. Đối với sản xuất nông nghiệp nông hộ, có thể coi ngành chăn nuôi như là "nhà máy chế biến" các sản phẩm phụ trồng trọt mà con người không ăn được (rơm cỏ, thân, lá, rễ, hạt) hoặc sản phẩm phụ có dinh dưỡng thấp (cám, bã...) để tạo ra những sản phẩm cao cấp, đó là thịt, trứng, sữa... Chính sự liên kết giữa trồng trọt và chăn nuôi đã tạo nên sức mạnh