Chuyển đến nội dung chính

Tạo giống khoai tây kháng bệnh virus và mốc sương

Tạo giống khoai tây kháng bệnh virus và mốc sương


hóm nghiên cứu tại Viện Sinh học nông nghiệp do GS.TS. Nguyễn Quang Thạch đẫn đầu vừa thực hiện thành công đề tài: “Nghiên cứu chọn tạo giống khoai tây kháng bệnh virus và mốc sương bằng phương pháp công nghệ sinh học”. Đây là một hướng đi mới đầy triển vọng trong chọn tạo các giống khoai tây trồng kháng các loại bệnh nguy hiểm.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
 
Trong các loại bệnh gây hại và làm giảm năng suất khoai tây, bệnh virus và bệnh mốc sương được coi là những bệnh nguy hiểm nhất. Nhiều biện pháp đã được đưa ra để hạn chế tác hại của bệnh như sử dụng các giống mới cho những vùng nhiễm bệnh, sản xuất các giống sạch virus để thay thế giống nhiễm bệnh, sử dụng các loại thuốc hóa học phòng chống bệnh mốc sương, ngăn cản tác nhân trung gian truyền nhiễm virus nhưng chưa mang lại hiệu quả như mong đợi.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy các loại khoai tây dại như S.pinnatisectum, S.tarnii, S.bulbocastanum mang nguồn gen kháng bệnh mốc sương cao, ngoài ra còn mang nguồn gen kháng bệnh virus. Tuy nhiên, rất khó để chuyển đặc tính kháng này qua lại tạo hữu tính giữa các loài dại với khoai tây trồng do sự không tương hợp về genome, sự bất thụ trong lai xa.
Để khắc phục hiện tượng này, lai soma (dung hợp tế bào) được áp dụng để chuyển tính kháng mốc sương, bệnh virus từ khoai tây dại vào khoai tây trồng. Các nghiên cứu cũng đã chứng minh khả năng chuyển được tính kháng bệnh virus và mốc sương từ các loài khoai tây dại sang các giống khoai tây trồng thông qua dung hợp tế bào trần. Kết quả dung hợp tế bào trần đã tạo ra các vật liệu khởi đầu là các con lai soma mang khả năng kháng 2 loại bệnh trên.
Các vật liệu kháng bệnh này sẽ tiếp tục được lai lại với các dòng khoai tây trồng nhằm cải thiện các đặc tính nông si học quý của các con lai tạo ra và cuối cùng sẽ thu được các giống khoai tây như mong đợi, vừa mang khả năng kháng bệnh, vừa mang các đặc tính nông sinh học quý.
Theo hướng này, nhóm nghiên cứu đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu chọn tạo giống khoai tây kháng bệnh virus và mốc sương bằng phương pháp công nghệ sinh học” nhằm phát triển các sản phẩm nghiên cứu ở giai đoạn trước (lai dòng soma) thành giống khảo nghiệm có đặc tính kháng virus; ứng dụng các phương pháp dung hợp tế bào trần, lai hữu tính kết hợp sử dụng nguồn gen khoai tây dại để tạo được dòng khoai tây mang đặc tính đồng thời kháng bệnh virus và bệnh mốc sương.
Kết quả nghiên cứu đã tạo ra được 2 giống khoai tây kháng virus PVY (H76 và H79): có khả năng trưởng phát triển tốt, ít bị nhiễm sâu bệnh hại; hầu như không bị nhiễm bệnh mốc sương, héo vàng… Đặc biệt, giống có tiềm năng cho năng suất khoảng 20 tấn/ha và năng suất thực tế hoảng 19 tấn/ha. Hai giống khoai tây này qua các lần khảo nghiệm trên diện rộng ngoài sản xuất, đều được các cơ quan kiểm nghiệm và bà con nông dân đánh giá cao cho sản xâuts thử. Trong đó, dòng H76 có nhiều đặc tính ưu việt đã được Trung tâm khảo nghiệm giống và sản phẩm cây trồng quốc gia đề nghị cho khảo nghiệm trên diện rộng ở các vùng sinh thái.
Đã thu được 3 dòng con lai vừa có khả năng kháng bệnh virus và mốc sương, cũng như mang nhiều đặc tính nông sinh học quý có triển vọng phát triển thành giống. Xây dựng thành công 2 quy trình gồm: Quy trình chọn tạo giống khoai tây kháng bệnh virus PVY và quy trình chọn tạo giống khoai tây kháng đồng thời bệnh virus và bệnh mốc sương bằng dung hợp tế bào trần và lai hữu tính. Các quy trình này rất dễ sử dụng và có độ lặp cao.
Theo đánh giá của các chuyên gia, đề tài đã góp phần chứng minh khả năng chuyển được tính kháng bệnh virus và mốc sương từ các loài khoai tây dại sang các giống khoai tây trồng thông qua dung hợp tế bào trần. Đây là một hướng đi mới đầy triển vọng trong chọn tạo các giống khoai tây trồng kháng các loại bệnh nguy hiểm.
Bước đầu đã tạo ra được các dòng khoai tây kháng đồng thời bệnh virus và mốc sương có khả năng phát triển thành giống. Giống khoai tây mới kháng bệnh chắc chắn sẽ góp phần đưa cây khoai tây trở thành cây trồng chính ở vụ đông tại đồng bằng Bắc Bộ và nhiều vùng sản xuất khoai tây khác trong cả nước
 
(Tin tức nguồn:TÂY ĐÔ)

Bài đăng phổ biến từ blog này

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu Xuất hiện trong nhiều món ăn quen thuộc và có nhiều tác dụng khác nhau nên lá lốt được trồng ở khắp nơi. Người dân chỉ cần chú ý theo một số kỹ thuật trồng cây dưới đây là có thể tự cung cấp rau cho gia đình. Cây lá lốt có tên khoa học là Piper lolot, thuộc họ  hồ tiêu  (Piperaceae) và có  kỹ thuật trồng cây  rất đơn giản. Lá lốt là loại rau quen thuộc và được dùng phổ biến trong các bữa ăn. Lá lốt thường được sử dụng ăn sống như các loại rau thơm hoặc làm rau gia vị khi nấu canh. Ngoài là rau ăn lá, lá lốt còn là vị thuốc chữa nhiều bệnh, khi dùng có thể dùng tươi, phơi hay sấy khô. Lá lốt có kỹ thuật trồng cây không quá khó Đây là loài cây thảo sống nhiều năm, thân có rãnh dọc. Lá đơn nguyên, mọc so le, hình tim, có màu xanh đậm, mặt lá bóng. Hoa mọc từ nách lá, cụm hoa bông, hoa đực và hoa cái khác gốc. Quả mọng chứa một hạt. Cây thường mọc hoang trong rừng, nơi ẩm ướt dọc các bãi cát ven suối và phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc

Những cây trồng mang lợi nhuận tỷ đô tại Việt Nam

Những cây trồng mang lợi nhuận tỷ đô tại Việt Nam Thị trường giống cây trồng Việt Nam có nhiều biến động mạnh trong suốt nhiều năm qua, đặc biệt là giống cây trồng các loại hạt được liệt vào danh sách siêu thực phẩm, cho giá trị kinh tế hàng tỷ USD. Cao lương Cây cao lương hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao lên tới hàng tỷ USD Cây cao lương vốn không còn là loại cây xa lạ với người Việt Nam, từ những năm 70, 80 của thế kỷ trước người dân đã tròng nhiều và dung làm lương thực thay thế gạo lúc đói kém.   Sau hàng chục năm không mang lại hiệu quả gì về kinh tế thì Tập đoàn Sol Holding (Nhật Bản) đã mang giống cao lương trở lại Việt Nam với nhiều hứa hẹn hấp dẫn về giá trị kinh tế. Theo ý kiến từ công ty này, đây là giống cây siêu cao lương được các nhà khoa học Nhật Bản lai tạo đưa lại năng suất cao và đáp ứng nhiều mục đích khác nhau. Ngoài mục đích làm thức ăn chăn nuôi, chúng còn được sử dụng để chế biến viên nén sinh

Chăn nuôi nông hộ giúp gì cho nông dân?

Chăn nuôi nông hộ giúp gì cho nông dân? Nhiều hộ dân xã An Dương (Tân Yên, Bắc Giang) đầu tư phát triển chăn nuôi đạt hiệu quả kinh tế cao. LTS - Tiếp tục cuộc thi viết về: "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn" do Báo Nhân Dânphối hợp Hội Nông dân Việt Nam và Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất dầu khí (Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam) tổ chức, bắt đầu từ hôm nay (17-4), chúng tôi sẽ lần lượt đăng các bài gửi tham dự cuộc thi năm 2014 với chủ đề: "Tái cơ cấu nông nghiệp, gắn với xây dựng nông thôn mới". Rất mong nhận được sự cộng tác của các cộng tác viên và bạn đọc. Đối với sản xuất nông nghiệp nông hộ, có thể coi ngành chăn nuôi như là "nhà máy chế biến" các sản phẩm phụ trồng trọt mà con người không ăn được (rơm cỏ, thân, lá, rễ, hạt) hoặc sản phẩm phụ có dinh dưỡng thấp (cám, bã...) để tạo ra những sản phẩm cao cấp, đó là thịt, trứng, sữa... Chính sự liên kết giữa trồng trọt và chăn nuôi đã tạo nên sức mạnh