Chuyển đến nội dung chính

Sâu bệnh hại keo: Sâu ăn lá keo tai tượng

Sâu bệnh hại keo: Sâu ăn lá keo tai tượng


Xin giới thiệu đặc điểm và biện pháp phòng trừ những loại sâu bệnh hại keo để các địa phương tham khảo, vận dụng
Những đối tượng gây hại chính và nguy hiểm trên cây keo gồm sâu kèn nhỏ, mối, sâu nâu vạch xám, bệnh phấn trắng hại lá, bệnh thán thư, bệnh đen thân, bệnh bồ hóng, bệnh nấm hồng.


Sâu bệnh hại keo: Sâu ăn lá keo tai tượng
sâu bệnh hại keo
 
Xin giới thiệu đặc điểm và biện pháp phòng trừ để các địa phương tham khảo, vận dụng.
Có tới 30 loài sâu ăn lá keo tai tượng thuộc 14 họ và 3 bộ côn trùng khác nhau, trong đó bộ Cánh vẩy (Lepidoptera) có số họ (9/14 họ) và số loài (23/30 loài) nhiều hơn cả.
2 họ có nhiều loài sâu ăn lá là họ Ngài đêm (Noctuidae 6 loài) và họ Sâu kèn (Psychidae 5 loài). Trong số 30 loài sâu ăn lá kể trên có 4 loài đã từng phát dịch ở mức độ khác nhau, nguy hiểm hơn cả là loài sâu nâu, sâu vạch xám rồi đến loài sâu chùa.
- Sâu hại họ Noctuidae: Có thể đẻ 1.500 - 2.000 trứng, sâu non thành thục có kích thước 45 - 70 mm, màu nâu vàng đến nâu đen, di chuyển như kiểu của sâu đo: Sâu non Anomis fulvida khác sâu non Speiredonia retorta Linnaeus ở chỗ có màu nâu xẫm hơn và có kích thước ngắn hơn; mặt dưới bụng có vệt đen chạy suốt từ ngực đến đốt bụng 10, trong khi loài Speiredoina retorta có các vân đen hình tròn riêng biệt nằm ở giữa đốt; đầu A.fulvida có 2 chấm trắng.
Thân Speiredonia retorta có những vạch xám chạy dọc cơ thể. Sâu non tuổi nhỏ ăn lá non, ở các tuổi sau ăn các lá bánh tẻ và lá già, sâu non thường chọn đầu lá để ăn trước.
Chúng ăn hại từ 18h30 đến sáng sớm hôm sau, khoảng 4h30 sâu non lại bò xuống nằm ở khe nứt của vỏ cây trong khu vực cách mặt đất 1 - 2 m hoặc nằm ẩn dưới lá keo khô trong khu vực quanh gốc cây có bán kính từ 0,5 - 1 m.
Trong số các loại sâu ăn lá thì sâu nâu là loài nguy hiểm hơn cả. Sâu nâu và sâu vạch xám thường cùng phá hại và có những tập tính rất giống nhau. Thời gian phát triển của sâu non sâu nâu thế hệ 1 là 20 - 28 ngày, thế hệ 2 là 7 -10 ngày và thế hệ 4 là 9 - 12 ngày. Sâu non vào nhộng ngay trên mặt đất hoặc dưới lá khô.

- Sâu kèn nhỏ (Acanthopsyche sp) thuộc họ ngài túi Psychidae bộ cánh vẩy Lepidoptera. Con cái trưởng thành dài 13 - 23 mm, mầu vàng nhạt, đầu nhỏ mọc 1 đôi gai, mảnh lưng hơi uốn cong, giữa có đường sọc nâu. Con đực trưởng thành dài 11 - 15 mm, sải cánh rộng 28 - 33 mm, cánh màu nâu xám đến vàng nâu. Con cái đẻ từ 100 - 270 trứng hình bầu dục dài 0,6 mm, rộng 0,4 mm, màu trắng xám.
Sâu non tuổi lớn có đầu bụng mầu nâu xám, trên thân rải rác có chấm đen. Sâu nằm trong túi. Túi (kèn) màu trắng xám. Nhộng màu nâu sẫm hình ống hơi thoi, con cái dài 13 - 20 mm, con đực 11 - 13 mm.

- Tập tính sinh sống và gây hại: Sâu kèn thường gây hại nặng trên các cây keo tai tượng, quế và những cây lâm nghiệp khác... ở các lứa tuổi khác nhau. Sâu kèn gây hại làm lá bị những đốm khô và thủng, mất khả năng quang hợp, cây trở nên còi cọc.
Sâu non tuổi 1 đến tuổi 3 chỉ ăn lớp biểu bì của lá, các tuổi sau ăn lá thành các lỗ hoặc ăn hết lá chỉ để lại gân lá. Nơi có mật độ cao (hàng nghìn con trên cây), chúng làm keo bị trụi lá nếu không phòng trừ kịp thời sẽ làm cho cây chết.
Mỗi năm có 1 lứa sâu kèn qua đông sau khi gây hại rồi hóa nhộng hàng loạt vào tháng 10 - 11, từ giữa tháng 2 đến đầu tháng 3 chúng vũ hóa và đẻ trứng, sâu non nở rộ phát sinh đồng loạt vào giữa tháng 3 đầu tháng 4, gây hại nặng vào các tháng 4 đến tháng 9.
- Công tác quản lý sâu ăn lá keo tai tượng: Vấn đề quan trọng nhất trong quản lý là làm tốt công tác điều tra theo dõi sâu hại để kịp thời đưa ra quyết định phù hợp. Do sâu nâu, sâu vạch xám có đặc điểm là ban ngày thường tập trung ở gốc cây và thân cây nên cần chú ý điều tra gốc cây và thân cây kết hợp với quan sát tán để tìm sâu kén.
Thời gian cần chú ý từ tháng 5 đến tháng 11. Rừng có tuổi 4 - 7 năm, nằm ở khu vực có độ cao dưới 200 m và rừng thành thục khai thác cần được chọn để đặt điểm điều tra, cứ khoảng 20 - 30 ha chọn 1 điểm và tiến hành điều tra mỗi điểm 5 - 10 cây.
Khi thấy mật độ sâu họ Noctuidae 5 sâu non/cây, mật độ túi kèn 20 túi/cây cần tiến hành ngay các biện pháp bắt giết. Cần làm tốt công tác chăm sóc rừng và bảo vệ các loài thiên địch. Có thể sử dụng các loại thuốc trừ sâu có tác dụng vị độc, tiếp xúc. Một số loại thuốc đã được sử dụng có hiệu quả là Sumithion 50EC hoặc Ofatox, KARATE 2,5EC, Trebon.
Sử dụng vòng dính, vòng độc để ngăn chặn sâu nâu và sâu vạch xám trong quá trình di chuyển qua lại giữa gốc và tán cây, nhất là các khu vực không thể sử dụng thuốc trừ sâu.
Do sâu nằm trong kèn (túi) nên rất khó phòng trừ, khi phát hiện nơi bắt đầu có dịch, cần tổ chức điều tra khoanh vùng để xác định đúng ổ dịch và mật độ sâu trên cây cũng như xác định đúng tuổi sâu gây hại để định hướng chỉ đạo phòng trừ bằng các biện pháp: Hái kèn (túi) bằng tay với những nơi có mật độ thấp; phun thuốc hóa học có độ độc thấp (chỉ dùng khi phát dịch sâu non ở độ tuổi 3, nơi có mật độ rất cao).
Nên sử dụng các loại thuốc trừ sâu vi sinh Bt, nấm Boverit, nấm Mat... phun phòng trừ ngay từ đầu để bổ sung vào rừng keo tự nhiên những nguồn vi sinh hữu ích.
 Tây Đô - (Nguồn: nongnghiep.vn)

Bài đăng phổ biến từ blog này

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu Xuất hiện trong nhiều món ăn quen thuộc và có nhiều tác dụng khác nhau nên lá lốt được trồng ở khắp nơi. Người dân chỉ cần chú ý theo một số kỹ thuật trồng cây dưới đây là có thể tự cung cấp rau cho gia đình. Cây lá lốt có tên khoa học là Piper lolot, thuộc họ  hồ tiêu  (Piperaceae) và có  kỹ thuật trồng cây  rất đơn giản. Lá lốt là loại rau quen thuộc và được dùng phổ biến trong các bữa ăn. Lá lốt thường được sử dụng ăn sống như các loại rau thơm hoặc làm rau gia vị khi nấu canh. Ngoài là rau ăn lá, lá lốt còn là vị thuốc chữa nhiều bệnh, khi dùng có thể dùng tươi, phơi hay sấy khô. Lá lốt có kỹ thuật trồng cây không quá khó Đây là loài cây thảo sống nhiều năm, thân có rãnh dọc. Lá đơn nguyên, mọc so le, hình tim, có màu xanh đậm, mặt lá bóng. Hoa mọc từ nách lá, cụm hoa bông, hoa đực và hoa cái khác gốc. Quả mọng chứa một hạt. Cây thường mọc hoang trong rừng, nơi ẩm ướt dọc các bãi cát ven suối và phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc

Tích cực phòng trừ đạo ôn

Tích cực phòng trừ đạo ôn Dự báo, thời gian tới bệnh đạo ôn hại lá có thể gây hại trên diện rộng. Riêng đối với những diện tích lúa trỗ sớm trong tháng 4, bệnh đạo ôn cổ bông có khả năng phát sinh. (Ánh minh hoạ)   Vụ xuân năm nay, tỉnh Tuyên Quang gieo cấy 20.169 ha lúa, đạt 104,3% kế hoạch. Hiện lúa bước vào giai đoạn đẻ nhánh rộ đến đứng cái làm đòng; tuy nhiên thời tiết diễn biến bất thường, tạo điều kiện cho sâu bệnh phát sinh gây hại rải rác trên một số giống nhiễm như BC 15, HT 1, Bắc thơm số 7, nếp... với diện tích 7 ha tại các huyện Yên Sơn, Sơn Dương, Chiêm Hóa, TP Tuyên Quang..., tỷ lệ bệnh nơi cao 3 - 5 % số lá. Dự báo, thời gian tới bệnh đạo ôn hại lá có thể gây hại trên diện rộng. Riêng đối với những diện tích lúa trỗ sớm trong tháng 4, bệnh đạo ôn cổ bông có khả năng phát sinh.   Anh Vũ Đình Tám, Trưởng trạm BVTV huyện Yên Sơn cho biết, trạm đã phân công cán bộ, bám sát cơ sở phối hợp với khuyến nông hướng dẫn bà con thực hiện bón cân đối NPK, không bón quá nhiều ho

Định hướng dài hạn nhằm thu hút vốn FDI vào nông nghiệp

Định hướng dài hạn nhằm thu hút vốn FDI vào nông nghiệp Ảnh chỉ có tính minh họa. (Ảnh: Lê Bá Liễu/TTXVN) Là ngành có nhiều tiềm năng và lợi thế, song dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng hạn chế so với nhu cầu thu hút vốn và những kỳ vọng. Trong khi đầu tư nước ngoài của cả nước có xu hướng tăng, thì dòng vốn này vào lĩnh vực nông nghiệp lại quá nhỏ về quy mô dự án và tỷ trọng vốn đầu tư so với tổng đầu tư nước ngoài của cả nước. Điều này đang đòi hỏi ngành nông nghiệp phải có một chiến lược, định hướng dài hạn để thu hút vốn FDI. FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn được đặc biệt coi trọng và được khuyến khích để bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp. Với quyết tâm vực dậy nguồn vốn này, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát nhấn mạnh Bộ sẽ rà soát lại cơ chế chính sách để thực sự khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, từ đó tạo m