Chuyển đến nội dung chính

Cây 'tỷ đô' của nông nghiệp Việt Nam

Cây 'tỷ đô' của nông nghiệp Việt Nam


Hai vùng khí hậu Tây Bắc và Tây Nguyên của Việt Nam rất phù hợp để phát triển cây mắc ca, do đó có thể coi là điều kiện đặc hữu của Việt Nam trong việc trồng cây mắc ca.
Sáng nay (8/7), tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu và phát triển công nghệ nông lâm nghiệp Thành Tây và công ty CP thương mại, đầu tư và phát triển công nghệ quốc tế (IDT) phối hợp tổ chức Diễn đàn phát triển cây mắc ca vì mục tiêu làm giàu của nông dân Tây Bắc và Tây Nguyên.
Tại diễn đàn, TS Nguyễn Trí Ngọc - Viện trưởng Viện Nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ nông lâm nghiệp Thành Tây- cho biết, cây mắc ca là loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao gấp đôi, thậm trí gấp ba cây cà phê, cây điều, thị trường tiêu thụ rất lớn, hiện cung không đủ cầu. Sau hơn 10 năm đưa vào trồng tại Việt Nam, diện tích mới đạt trên 2000 ha và có trên 10 giống mắc ca phù hợp với vùng Tây Nguyên, Tây Bắc. Hiện, Việt Nam đã quy hoạch 200.000 ha ở Tây Nguyên và 30.000 ha và Tây Bắc. Dự kiến, đến 2025 đạt 200.000 tấn hạt và tạo ra giá trị thương mại hàng tỷ USD sau năm 2025.
Cay-ty-đo-cua-nong-nghiep-Viet-Nam-(2).jpg
Cây mắc ca được trồng tại nhà ông Nguyễn Đức Ba ngụ tại thị trấn Thạnh Mỹ, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng.
Trong thời gian qua, bên cạnh việc các nhà khoa học bỏ tâm sức nghiên cứu, cũng đã có nhiều doanh nghiệp “âm thầm” đầu tư vào cây mắc ca. Trong đó phải kể tới là Vinamaca với các thành công bước đầu khá vững chắc trong lĩnh vực giống cây và phát triển canh tác tại Tây Nguyên. Tại Điện Biên, công ty IDT cũng đang tiến hành triển khai dự án trồng cây mắc ca trên diện tích 4.000 ha và IDT cũng đã đưa ra thị trường những sản phẩm chế biến mắc ca đầu tiên với thương hiệu cao cấp Delix. Lĩnh vực này trở nên sôi động hơn khi ngân hàng Lienviet Postbank mới đây đã công bố Đề án 10.000 tỷ đồng đầu tư vào mắc ca.
Nguyên Phó thủ tướng Nguyễn Công Tạn cho rằng, hai vùng khí hậu Tây Bắc và Tây Nguyên của Việt Nam rất phù hợp để phát triển cây mắc ca, do đó có thể coi là điều kiện đặc hữu của Việt Nam trong việc trồng cây mắc ca. Một cây mắc ca có thể cho tới 70 kg quả và với giá hiện khoảng 15 USD/kg nhân thì Việt Nam chỉ cần 10 năm để phát triển 100.000 ha và có thể đạt được kim ngạch khoảng 2 tỷ USD/năm.
GS Hoàng Hòe- nguyên Viện trưởng Viện Điều tra quy hoạch rừng (Bộ NN & PTNT)- dự báo, nhu cầu nhân mắc ca trên thị trường thế giới sẽ không thấp hơn 10 lần so với cà phê.  Cũng theo giáo sư Hoàng Hòe, cà phê chủ yếu làm đồ uống và một phần nhỏ pha rượu hay bánh kẹo trong khi nhân mắc ca do đặc điểm dòn, bùi, thơm ngon, cách ăn và chế biến cũng rất đa dạng cho phép mắc ca vượt qua mọi ranh giới sắc tộc, tôn giáo, tuổi tác, giới tính và truyền thống ẩm thực để đến với mọi người trên thế giới. Vì là đồ ăn nên lượng tiêu dùng hàng ngày của mỗi người sẽ lớn hơn cà phê, ca cao rất nhiều.
Thực tế cũng cho thấy, mức đầu tư vào trồng cây mắc ca ở Việt Nam thấp hơn nhiều so với một số nước như Australia, Mỹ, Nam Phi… Do đó, mắc ca hoàn toàn có thể là đột phá thứ hai sau cây cà phê và Việt Nam có thể trở thành cường quốc về mắc ca.
Cây mắc ca cũng được Chính phủ đặc biệt quan tâm. Điều 12 Nghị định 210/2013/NĐ-CP về chính sách khuyến khích DN đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn vừa chính thức có hiệu lực từ 10/2/2014 quy định: “Các dự án trồng cây mắc ca có quy mô từ 50 ha trở lên được ngân sách nhà nước hỗ trợ 15 triệu đồng/ha để xây dựng đồng ruộng, cây giống. Hỗ trợ xây dựng cơ sở sản xuất giống cây mắc ca quy mô 500.000 cây giống/năm trở lên, mức hỗ trợ tối đa là 70% chi phí đầu tư/cơ sở …”
Nhiều ý kiến cho rằng, cần có thêm thời gian để các vườn cây hiện có định hình về năng suất, chất lượng, tiêu thụ ổn định. Bên cạnh đó, cần tiếp tục nghiên cứu kỹ thuật, thăm dò thị trường và xây dựng chuỗi trồng, thu mua, chế biến và tiêu thụ là rất quan trọng để nâng cao giá trị sản phẩm và tránh tình trạng trồng ồ ạt nhưng đầu ra không tiêu thụ được.
 Theo Nguyễn Hạnh/ Báo công thương

Bài đăng phổ biến từ blog này

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu Xuất hiện trong nhiều món ăn quen thuộc và có nhiều tác dụng khác nhau nên lá lốt được trồng ở khắp nơi. Người dân chỉ cần chú ý theo một số kỹ thuật trồng cây dưới đây là có thể tự cung cấp rau cho gia đình. Cây lá lốt có tên khoa học là Piper lolot, thuộc họ  hồ tiêu  (Piperaceae) và có  kỹ thuật trồng cây  rất đơn giản. Lá lốt là loại rau quen thuộc và được dùng phổ biến trong các bữa ăn. Lá lốt thường được sử dụng ăn sống như các loại rau thơm hoặc làm rau gia vị khi nấu canh. Ngoài là rau ăn lá, lá lốt còn là vị thuốc chữa nhiều bệnh, khi dùng có thể dùng tươi, phơi hay sấy khô. Lá lốt có kỹ thuật trồng cây không quá khó Đây là loài cây thảo sống nhiều năm, thân có rãnh dọc. Lá đơn nguyên, mọc so le, hình tim, có màu xanh đậm, mặt lá bóng. Hoa mọc từ nách lá, cụm hoa bông, hoa đực và hoa cái khác gốc. Quả mọng chứa một hạt. Cây thường mọc hoang trong rừng, nơi ẩm ướt dọc các bãi cát ven suối và phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc

Tích cực phòng trừ đạo ôn

Tích cực phòng trừ đạo ôn Dự báo, thời gian tới bệnh đạo ôn hại lá có thể gây hại trên diện rộng. Riêng đối với những diện tích lúa trỗ sớm trong tháng 4, bệnh đạo ôn cổ bông có khả năng phát sinh. (Ánh minh hoạ)   Vụ xuân năm nay, tỉnh Tuyên Quang gieo cấy 20.169 ha lúa, đạt 104,3% kế hoạch. Hiện lúa bước vào giai đoạn đẻ nhánh rộ đến đứng cái làm đòng; tuy nhiên thời tiết diễn biến bất thường, tạo điều kiện cho sâu bệnh phát sinh gây hại rải rác trên một số giống nhiễm như BC 15, HT 1, Bắc thơm số 7, nếp... với diện tích 7 ha tại các huyện Yên Sơn, Sơn Dương, Chiêm Hóa, TP Tuyên Quang..., tỷ lệ bệnh nơi cao 3 - 5 % số lá. Dự báo, thời gian tới bệnh đạo ôn hại lá có thể gây hại trên diện rộng. Riêng đối với những diện tích lúa trỗ sớm trong tháng 4, bệnh đạo ôn cổ bông có khả năng phát sinh.   Anh Vũ Đình Tám, Trưởng trạm BVTV huyện Yên Sơn cho biết, trạm đã phân công cán bộ, bám sát cơ sở phối hợp với khuyến nông hướng dẫn bà con thực hiện bón cân đối NPK, không bón quá nhiều ho

Định hướng dài hạn nhằm thu hút vốn FDI vào nông nghiệp

Định hướng dài hạn nhằm thu hút vốn FDI vào nông nghiệp Ảnh chỉ có tính minh họa. (Ảnh: Lê Bá Liễu/TTXVN) Là ngành có nhiều tiềm năng và lợi thế, song dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng hạn chế so với nhu cầu thu hút vốn và những kỳ vọng. Trong khi đầu tư nước ngoài của cả nước có xu hướng tăng, thì dòng vốn này vào lĩnh vực nông nghiệp lại quá nhỏ về quy mô dự án và tỷ trọng vốn đầu tư so với tổng đầu tư nước ngoài của cả nước. Điều này đang đòi hỏi ngành nông nghiệp phải có một chiến lược, định hướng dài hạn để thu hút vốn FDI. FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn được đặc biệt coi trọng và được khuyến khích để bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp. Với quyết tâm vực dậy nguồn vốn này, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát nhấn mạnh Bộ sẽ rà soát lại cơ chế chính sách để thực sự khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, từ đó tạo m