'Nuôi hàng triệu dân thế giới nhưng mình lại nghèo'
Thực trạng nhiễm mặn tại ĐBSCL ngày một nghiêm trọng do độ mặn tăng dần, thời gian nhiễm mặn kéo dài hơn.
Nếu
ĐBSCL tiếp tục duy trì mô hình trồng cây lúa làm chủ lực một cách cứng
nhắc thì thời gian tới đời sống nông dân Việt Nam sẽ càng lún sâu vào
khó khăn. Đó là ý kiến của rất nhiều chuyên gia, đại biểu tham dự Diễn
đàn ĐBSCL 2015 nhằm tìm kiếm những giải pháp mới cho công cuộc phát
triển và ứng phó với biến đổi khí hậu. Diễn đàn do Bộ TN&MT, Bộ
NN&PTNT và các đơn vị phối hợp tổ chức từ ngày 2 đến 3-2 tại TP.HCM.
Quá nhiều thách thức “đè” hạt gạo
Bộ
trưởng Bộ TN&MT Nguyễn Minh Quang phát biểu: “Có thể nói chưa bao
giờ vùng ĐBSCL lại đứng trước nhiều thách thức như hiện nay. Trong đó có
cả các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, nước biển dâng cũng như
các áp lực ngày càng lớn của sự phát triển kinh tế-xã hội còn chưa thực
sự bền vững”.
ông
Leocadio Sebastian (Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế - IRRI) cho biết:
“Các nghiên cứu của chúng tôi cho thấy hiện thực trạng nhiễm mặn tại
ĐBSCL ngày một nghiêm trọng do độ mặn tăng dần, thời gian nhiễm mặn kéo
dài hơn”. Chưa kể 90% nguồn nước ngọt ở ĐBSCL đến từ sông Me Kong hiện
đứng trước nguy cơ không ổn định do hàng loạt dự án thủy điện trên dòng
chính sông Me Kong ở thượng nguồn. “Không loại trừ trường hợp phần lớn
đất tại ĐBSCL trong tương lai không thể trồng lúa nếu không có những
giải pháp hiệu quả” - ông Leocadio Sebastian nhấn mạnh.
Người nông dân trồng lúa ở ĐBSCL ngày càng chịu nhiều tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, độ mặn tăng dần. Ảnh: HTD
Cho đến
nay đã có nhiều giải pháp được đề xuất và áp dụng nhằm phát triển nông
nghiệp ĐBSCL. Song các hoạt động cải tạo mặn, thủy lợi, kỹ thuật… giải
quyết khó khăn cho hạt gạo vẫn còn nhiều thách thức.
“Điển
hình như việc liên kết vùng, hợp tác mua và sử dụng chung công nghệ giữa
các tỉnh để tối đa hóa hiệu suất sản xuất còn hạn chế” - ông Nathan
Belete (Ngân hàng Thế giới) cho biết. Bên cạnh đó, chi phí hệ thống hạ
tầng, công nghệ hỗ trợ cải tạo môi trường trồng lúa lại quá cao.
Thế nên
một mình nông dân hoặc hành động đơn lẻ của từng đơn vị không thể gồng
gánh nổi. Sản xuất ra hạt lúa đã khó, thị trường đầu ra lại khó khăn hơn
khi giá thấp khiến đời sống nông dân càng tụt hậu.
Một
chuyên gia bức xúc: “Nông dân Việt nuôi hàng triệu người dân trên thế
giới nhưng chính họ lại sống trong cảnh nghèo khó vì trồng lúa hoài
không khá nổi mà ngày càng khó khăn hơn”.
Chưa có mô hình thay thế hiệu quả
Trước
những thay đổi về khí hậu lẫn các yếu tố kinh tế-xã hội, một trong những
giải pháp quan trọng trong trung và dài hạn cho ĐBSCL được nhiều chuyên
gia đề xuất chính là chuyển đổi hệ thống “lúa làm chủ lực” sang “đa
dạng hóa cây trồng - vật nuôi”. Hiện ĐBSCL có đến 1.140.000 người trồng
lúa và đang bị tổn thương nghiêm trọng vì khí hậu thay đổi cùng áp lực
thị trường.
Trong
khi đó, các chuyên gia dẫn kết quả nhiều nghiên cứu cho thấy rằng chỉ
cần 30-35 huyện trên tổng thể vùng ĐBSCL đã có năng lực sản xuất trên
50% sản lượng lúa gạo hiện nay. Nhiều hộ gia đình mong muốn chuyển đổi
hệ thống cây trồng thay cây lúa.
Tuy
nhiên, chi phí chuyển đổi cây trồng cao, phương pháp canh tác mới còn
hạn chế, thị trường đầu ra cho sản phẩm mới (cây trồng, vật nuôi mới)
chưa ổn định… nên nông dân vẫn chấp nhận chọn cây lúa - chấp nhận cuộc
sống bấp bênh nhưng nhìn chung vẫn an toàn trong ngắn hạn so với việc đa
dạng hóa cây trồng một cách mạo hiểm.
Đại
diện từ IRRI cho biết nhìn chung hiện vẫn chưa có một mô hình nào thành
công trên diện rộng ở ĐBSCL để giải quyết những khó khăn trong sản xuất
lúa gạo. Các giải pháp chuyển đổi, đa dạng hóa cây trồng - vật nuôi thay
cây lúa vẫn mang tính bột phát, chưa có kiểm chứng và mô hình hóa.
Ba giải pháp căn cơ
Nhóm
các chuyên gia thảo luận về vấn đề “Hệ thống canh tác nước mặn hay nước
ngọt” cho hay muốn đa dạng hóa cây trồng - vật nuôi cho ĐBSCL cần phải
hiểu được thổ nhưỡng tại khu vực này. Có ba khu vực chính: khu vực nhiễm
mặn quanh năm, khu vực nhiễm mặn và ngọt dựa theo mùa và khu vực nước
ngọt quanh năm. Dựa vào đó, các chuyên gia đề xuất ba giải pháp tương
ứng.
Với khu
vực nhiễm mặn quanh năm, tất nhiên cây lúa không thể tồn tại. Vậy nên
cần tăng cường hệ thống thủy lợi, phục hồi rừng ngập mặn, cải tạo nước
mặn (có thể bơm nước biển thay nước ô nhiễm) để nuôi trồng thủy sản… Tạo
kênh dẫn để trữ nước ngọt phục vụ đời sống sinh hoạt.
Cần tạo
ra hệ thống canh tác sinh thái mới tại khu vực nhiễm mặn theo mùa. Muốn
thế phải xây dựng hệ thống thủy lợi tương ứng với các mô hình lúa - tôm
- hoa màu.
Ông
Jake Brunner (Liên minh Bảo tồn Quốc tế - IUCN, điều phối viên Chương
trình Me Kong) đánh giá cao mô hình của An Giang, canh tác hai vụ lúa và
một vụ hoa màu thay vì ba vụ lúa như trước đây. Hay như Bangladesh,
nông dân trồng bèo tây vừa để cải tạo nguồn nước, vừa dùng sản xuất phân
bón mang về thu nhập 800-900 USD (trên 17 triệu đồng đến trên 19 triệu
đồng) trên diện tích 1 ha mỗi vụ, cao hơn nhiều so với việc trồng lúa.
Cuối
cùng, phải chủ động sản xuất nhiều mặt hàng nông nghiệp chất lượng cao,
điển hình như đặc sản cây ăn trái, các dòng lúa giá trị cao thay cho các
dòng lúa chất lượng kém như hiện tại. Muốn thế cần huy động kinh
nghiệm, ngân sách từ nhà nước, các tỉnh, các đối tác quốc tế và tư nhân.
Sáu sáng kiến đề xuất
Ông Leocadio Sebastian (Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế - IRRI) đề xuất sáu sáng kiến:
1. Tăng cường gạo chất lượng cao và các sản phẩm thương mại;
2. Đẩy mạnh xây dựng thương hiệu gạo Việt;
3. Giảm tối đa sự thất thoát lúa gạo trong quá trình trước và trong khi thu hoạch;
4. Áp dụng các giải pháp giảm thiểu tác động từ biến đổi khí hậu đối với dây chuyền sản xuất lúa gạo;
5. Tiếp cận và giúp đỡ nhiều hơn đối với các hộ nông dân nhỏ lẻ; và
6. Tập trung phát triển dây chuyền sản xuất gạo lấy chất lượng và tính ổn định làm trung tâm.
2. Đẩy mạnh xây dựng thương hiệu gạo Việt;
3. Giảm tối đa sự thất thoát lúa gạo trong quá trình trước và trong khi thu hoạch;
4. Áp dụng các giải pháp giảm thiểu tác động từ biến đổi khí hậu đối với dây chuyền sản xuất lúa gạo;
5. Tiếp cận và giúp đỡ nhiều hơn đối với các hộ nông dân nhỏ lẻ; và
6. Tập trung phát triển dây chuyền sản xuất gạo lấy chất lượng và tính ổn định làm trung tâm.
(Nguồn: taydo)