Thành tích nông nghiệp Việt: Nhập khẩu hết, trừ... đất, nông dân?
Để có được những con số ấn tượng về số lượng xuất khẩu, ngoài đất và con người, hầu hết đầu vào của nông nghiệp Việt Nam đều nhập khẩu.
TS Lê
Hưng Quốc, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thương mại Giống cây trồng Việt Nam,
nguyên Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) cho biết khi trao đổi
với Đất Việt về tình trạng nông sản Việt bội thực những "người khổng lồ
chân đất sét".
Nông sản Việt kiên trì về số lượng
Nhiều
mặt hàng nông sản Việt Nam như gạo, điều, cà phê, cao su... đều đang là
những "người khổng lồ" khi có thành tích xuất khẩu hàng đầu thế giới,
tuy nhiên chúng lại có "đôi chân đất sét" quá yếu về chất lượng, thương
hiệu, uy tín, giá trị gia tăng mang lại và bị phụ thuộc.
Theo TS
Lê Hưng Quốc, kể từ khi Việt Nam xuất khẩu tấn gạo đầu tiên vào năm
1989, đến nay đã được 25 năm. 25 năm xuất khẩu gạo là chỗ dựa của kinh
tế Việt Nam, giải quyết khó khăn trong đời sống nhân dân, cân đối ngoại
tệ.
"Có thể
trong thời gian ấy có chỗ này chặt cây nọ, bỏ cây kia, giá có lên xuống
đôi chút nhưng về tổng thể, bức tranh nông nghiệp đã sáng dần lên và
tăng trưởng đều về lượng. Nông dân Việt Nam rất giỏi, vất vả hơn nông
dân nước khác nhưng đã nuôi sống được 90 triệu người.
Có
nhiều thứ lâu nay người ta vẫn nói nhiều nhưng chưa thật chính xác. Thái
Lan có gạo 800 USD/tấn, Việt Nam chỉ bán được 450 USD/tấn, nhưng ít ai
suy xét rằng Thái Lan khác Việt Nam rất nhiều. Thái Lan có 60 triệu dân,
Việt Nam có 90 triệu người, đất nông nghiệp bình quân đầu người của họ
gấp đôi, gấp ba lần Việt Nam. Chính vì thế, Việt Nam phải làm lúa ba vụ,
thậm chí ở ĐBSCL hai năm phải 7 vụ, chọn giống 90 ngày, năng suất đạt
16 tấn/ha. Còn Thái Lan chỉ làm một vụ, chọn giống 160 ngày, năng suất 4
tấn/ha. Tính về năng suất trên mỗi ha, Việt Nam vẫn gấp rưỡi Thái Lan.
Bởi thế, cứ đòi hỏi Việt Nam phải có lúa 800 USD thì không có bởi chúng
ta đất chật người đông, phải thâm canh tăng vụ mới dư được 7 triệu tấn
gạo xuất khẩu.
Tương
tự, đậu tương Việt Nam mỗi năm làm 3 vụ, tổng cộng năng suất đạt 4,5
triệu tấn/ha, còn Mỹ chỉ làm 1 vụ, đạt 3 triệu tấn/ha. Họ làm được vậy
là vì có đất rộng, làm giống dài ngày, công nghiệp hóa toàn bộ. Nhưng về
hiệu quả trên mỗi ha của Việt Nam là cao hơn", ông Quốc chỉ rõ.
Chính
vì thế, ông Lê Hưng Quốc cho rằng, phải thừa nhận nông nghiệp Việt Nam
là người khổng lồ thực sự chứ không phải có "đôi chân đất sét". "Bao
nhiêu nước đảm bảo được an ninh lương thực, xóa đói giảm nghèo mà Việt
Nam lại làm được và được Liên hợp quốc công nhận?".
Mặc dù Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới nhưng giống lúa, phân bón, thuốc trừ sâu chủ yếu đi nhập khẩu |
Để có được những con số ấn tượng về số lượng xuất khẩu, ngoài đất và con người, hầu hết đầu vào của nông nghiệp Việt Nam đều nhập khẩu.
Theo
thống kê của Bộ NN&PTNT, năm 2013, Việt Nam phải chi 500 triệu USD
để nhập hạt giống rau, 12,4 tỷ USD để nhập vật tư nông nghiệp, có tới
trên 90% thuốc BVTV và máy móc chúng ta phải nhập khẩu.
Nguyên Cục trưởng Cục Trồng trọt cho rằng, trong thế giới hội nhập không thể tự hào tự cung tự cấp như trước đây mà nhập là tốt.
"Việt
Nam có làm được gì đâu mà không nhập?! Bao nhiêu năm nay nay vẫn thế.
Cái gì thế giới không có mà Việt Nam làm hơn được thì làm, còn thế giới
có mà Việt Nam không làm hơn được thì tốt nhất là nhập cho nhanh, tội gì
không tận dụng tài nguyên của thế giới. Trong nhà mỗi người Việt Nam có
cái gì không phải nhập khẩu?".
Với
nông nghiệp Việt Nam, ông Quốc cho rằng chuyện nhập khẩu là đương nhiên.
Những giống tốt nhất của Việt Nam hiện nay hoàn toàn là giống nhập.
Trong 500 triệu USD dùng để nhập khẩu hạt giống rau, hầu hết đều là
những hạt giống Việt Nam chưa làm được, nếu có làm thì hạt cũng lép,
năng suất kém do điều kiện sinh thái, khí hậu... Hiện Việt Nam mới chỉ
tạo ra được những giống rau bình thường, còn các mặt hàng cao cấp như
bắp cải, súp lơ, hành tây, su hào, cà rốt, dưa chuột, cà chua Việt Nam
hoàn toàn không làm được.
"Cây
bắp cải Việt Nam phải chờ lạnh mới cuộn được, trong khi giống của nước
ngoài là giống chịu nhiệt, nóng vẫn có thể cuộn", ông Quốc nói.
TS Lê
Hưng Quốc dẫn một vài câu chuyện nhỏ của bản thân ông: "Tôi có cái cuốc
con gà của Trung Quốc dùng mấy chục năm rồi vẫn sắc bén, đặc biệt khi
cuốc đất nó không hề bị bám đất, trong khi mỗi nhát cuốc Việt Nam là đất
rơi cả vào đầu. Ngày trước tôi cũng nuôi lợn, nấu một chậu cám cho nó
ăn nhưng được một nửa thì nó bỏ dở, không chịu ăn nữa. Tôi bốc một nắm
thức ăn con cò trộn vào thì con lợn lại ăn hết.
Hay năm
tôi đi Liên Xô mang về quả táo, bổ ra là chia cho cả xóm, mỗi người chỉ
được một mẩu, quý lắm. Bây giờ, ở siêu thị trái cây toàn là hàng nhập
khẩu, cái gì tốt nhất trên thế giới Việt Nam đều có cả. Sự hội nhập và
mở cửa tạo cho nền kinh tế Việt Nam phong phú, trình độ văn minh tăng
lên".
Ông Quốc phủ nhận những lo ngại về việc Việt Nam bị phụ thuộc vào nước ngoài khi cứ mải đi nhập.
"Ý
nghĩa tiếng Việt của lệ thuộc, phụ thuộc, tự chủ giờ sai hết. Bây giờ
thế giới phẳng, cả thế giới phụ thuộc chặt chẽ vào nhau, không ai có thể
tự làm được hết mọi thứ cho mình. Việt Nam cũng vậy, huống chi Việt
Nam chẳng làm được gì. Thành tích của Việt Nam có được chính là do mở
cửa nhập vào và trong nông nghiệp thì càng rõ điều này".
Nông nghiệp Việt đã hết động lực phát triển?
Dù vậy TS Lê Hưng Quốc cho rằng, đã đến lúc nông nghiệp Việt Nam không thể chạy theo con số thành tích về xuất khẩu nữa.
"Việt
Nam không thể mãi tự hào về 25 năm xuất khẩu gạo được nữa. 25 năm mà
người dân vẫn không đủ sống, vẫn phải bỏ ruộng thì chứng tỏ nông nghiệp
Việt đã không hết động lực phát triển. Thành tích giời bể gì nhưng nông
dân trả ruộng, thanh niên bỏ ra thành thị là không thể chấp nhận được.
Vấn đề của nông nghiệp Việt Nam hiện nay là vấn đề của thời kỳ hội nhập,
thời kỳ của chất lượng, hiệu quả. Chính vì thế mới cần tái cấu trúc
nông nghiệp", ông nói.
Theo
ông Quốc, đề án tái cấu trúc ngành nông nghiệp của Bộ NN&PTNT nói
rất nhiều, rất dài nhưng lại không rõ khiến các địa phương không biết
chuyển đổi thế nào.
"Tái
cấu trúc nông nghiệp trước hết phải tái cấu trúc đất đai, cho tích tụ
ruộng đất. Miền bắc bình quân 3 sào/người, miền nam 1ha/người, như thế
thì không thể 'tái' bất cứ cái gì được. Phải nâng lên tối thiểu 3
ha/người, sửa đổi luật Đất đai, xóa bỏ chính sách hạn điền, kéo dài thời
gian sử dụng đất", nguyên Cục trưởng Cục Trồng trọt chỉ rõ.
Cũng theo ông Quốc, các yếu tố khác cần tái cấu trúc trong nông nghiệp là thị trường, lao động, sản phẩm và đầu tư.
"Phải
vạch rõ lộ trình, xây dựng các kịch bản cụ thể từ thấp đến cao thì mới
tạo ra được sự bền vững cho ngành nông nghiệp", ông nói.
(Nguồn: taydojsc.com.vn)