Chuyển đến nội dung chính

Nghịch lý tốn tỷ đô nhập máy nông nghiệp

Nghịch lý tốn tỷ đô nhập máy nông nghiệp

Hằng năm, Việt Nam chi tới 18,6 tỷ USD để nhập các loại máy móc, thiết bị, trong đó có máy móc nông nghiệp. Trong khi đa số các loại máy móc đều phải nhập khẩu thì những “cánh chim đầu đàn” về cơ điện nông nghiệp lại chỉ đầu tư làm ô tô, thủy lợi.
 
5a-HQAY-jpg-1.jpg
Dù tỷ lệ cơ giới hóa nông nghiệp tăng nhưng phần lớn Việt Nam vẫn sử dụng máy nhập khẩu
Máy nội hụt hơi
Theo TS Nguyễn Quốc Việt, Viện Cơ điện nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch (Bộ NN&PTNT), những năm gần đây, tỷ lệ cơ giới hoá bình quân trong các khâu làm đất, gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch và bảo quản nông sản đối với từng loại cây trồng ở nước ta có tiến bộ. Năm 2013, với cây lúa, khâu làm đất có tỷ lệ cơ giới hóa đạt tới 90%, khâu thu hoạch lúa đạt 35%. Đồng bằng sông Cửu Long là khu vực có tỷ lệ cơ giới hóa cao nhất cả nước với khâu làm đất đạt gần 100%, khâu thu hoạch đạt 65%, sấy lúa chủ động đạt 45%, xay xát gạo trên 95%.
Ông Vũ Anh Tuấn, Trưởng phòng Cơ điện - Cục Chế biến Nông lâm thủy sản và nghề muối (Bộ NN&PTNT) cho rằng, dù tỷ lệ cơ giới hóa có tăng, nhưng trên các cánh đồng Việt Nam, phần lớn máy móc là của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan… “Đây là một sự lãng phí lớn, nhưng vì trong nước nhiều loại máy móc chưa sản xuất được nên bắt buộc phải nhập khẩu”, ông Tuấn nói. Theo ông Tuấn, năm ngoái, Việt Nam chi 18,6 tỷ USD để nhập các loại máy móc, thiết bị, phụ tùng khác, trong đó có máy móc nông nghiệp.
Ông Tuấn cho biết, trong các loại máy nông nghiệp hiện nay, dù mới xuất hiện ở nước ta vài chiếc, nhưng loại máy đắt nhất là máy trồng mía 8 tỷ đồng/chiếc. Còn lại các máy phổ biến như: máy gặt đập liên hợp, làm đất, máy cấy, máy kéo… rẻ cũng ngót nghét gần trăm triệu. Với loại máy Nhật “xịn” của hãng Kobuta giá lên tới 500-600 triệu đồng/chiếc, đắt gấp đôi máy nội, máy Trung Quốc.
Trao đổi với PV Tiền Phong, đại diện doanh nghiệp (DN), Tư Sang (tỉnh Tiền Giang), một cơ sở sản xuất máy gặt đập liên hợp nổi tiếng ở Đồng bằng sông Cửu Long cho biết: Những năm trước, cơ sở bán được hơn 300 chiếc/năm. Tuy nhiên, gần đây, do máy của Nhật, Thái Lan, Trung Quốc… nhập về nhiều nên doanh số năm nay chỉ còn một nửa. Theo đại diện cơ sở này, dù giá bán ra là khá cạnh tranh (chỉ hơn 300 triệu đồng/chiếc), thấp hơn khá nhiều so với máy Kobuta, nhưng bán vẫn rất chậm.
Câu chuyện cơ sở sản xuất máy nông nghiệp lớn ở Tiền Giang đang thể hiện rõ tình trạng máy nội “hụt hơi” trước máy ngoại. Theo đại diện một DN chuyên nhập máy Trung Quốc về bán ở Việt Nam, về mẫu mã, máy ngoại “ăn đứt” máy nội, chất lượng máy ổn định. Trong khi máy nội chi tiết rườm rà, hỏng hóc khó kiếm phụ thùng thay thế. Với máy ngoại, khi máy có vấn đề, nông dân chỉ cần “a lô” là sẽ có đại diện của hãng đến xem, hỗ trợ. 

“Ông lớn” ngó lơ sản xuất máy gặt
Ông Phạm Tuấn Anh, Phó giám đốc Cty TNHH Máy nông nghiệp Việt Trung - nhà cung cấp máy nông nghiệp có thị phần lớn ở miền Bắc cho biết, máy nội khó sống là do giá thành cao, các tính năng (làm đất, thu hoạch, sau thu hoạch) còn hạn chế, không theo kịp nhu cầu thị trường. Trong khi đó, các hãng của Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc… họ vừa ra sản phẩm mới, lại liên tiếp nâng cấp, bổ sung tính năng cho sản phẩm cũ, đánh vào nhu cầu của người sử dụng.
“Hiện, 90% máy gặt đập liên hợp ở Đồng bằng sông Cửu Long nhập ở nước ngoài. Nhiều loại máy trôi nổi, không kiểm soát được chất lượng”.
 TS Chu Văn Thiện, Viện trưởng Cơ điện và Công nghệ sau thu hoạch (Bộ NN&PTNT)
Là doanh nghiệp cung ứng máy nông nghiệp lớn ở miền Bắc, với doanh số bán ra tới 2.000-3.000 máy cày/tháng, nhưng theo ông Tuấn Anh, máy nội rất khó cạnh tranh với máy Trung Quốc, Nhật Bản. “Hiện nay xuất hiện nhiều loại máy cày nhập bãi từ Nhật. Đây là dòng cạnh tranh rất ác liệt đối với máy Việt Nam và Trung Quốc”, ông Tuấn Anh nói.
Theo ông Tuấn Anh, do công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam kém nên mặt hàng “mũi nhọn” của DN ông là máy cày cũng chỉ có tỷ lệ nội địa hóa khoảng 50%, máy xay xát 70-80%, còn máy gặt đập liên hợp phải nhập toàn bộ về để lắp ráp.
Nói về những “cánh chim đầu đàn” của nhà nước về máy nông nghiệp như: Tổng Cty máy động lực và máy nông nghiệp (VEAM), Tổng Cty cơ điện nông nghiệp và thủy lợi… ông Tuấn Anh cho rằng, DN mình đang ở thế “lưỡng nan”, bởi giá không cạnh tranh với máy Trung Quốc, cũng không thể sánh chất lượng bằng máy Nhật.
“Mẫu mã của ta chả sáng tạo gì nhiều, đã thế còn sao chép của Trung Quốc lại bán đắt hơn, như vậy ai người ta mua”, ông Tuấn Anh nói
(Nguồn: tienphong.vn)

Bài đăng phổ biến từ blog này

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu Xuất hiện trong nhiều món ăn quen thuộc và có nhiều tác dụng khác nhau nên lá lốt được trồng ở khắp nơi. Người dân chỉ cần chú ý theo một số kỹ thuật trồng cây dưới đây là có thể tự cung cấp rau cho gia đình. Cây lá lốt có tên khoa học là Piper lolot, thuộc họ  hồ tiêu  (Piperaceae) và có  kỹ thuật trồng cây  rất đơn giản. Lá lốt là loại rau quen thuộc và được dùng phổ biến trong các bữa ăn. Lá lốt thường được sử dụng ăn sống như các loại rau thơm hoặc làm rau gia vị khi nấu canh. Ngoài là rau ăn lá, lá lốt còn là vị thuốc chữa nhiều bệnh, khi dùng có thể dùng tươi, phơi hay sấy khô. Lá lốt có kỹ thuật trồng cây không quá khó Đây là loài cây thảo sống nhiều năm, thân có rãnh dọc. Lá đơn nguyên, mọc so le, hình tim, có màu xanh đậm, mặt lá bóng. Hoa mọc từ nách lá, cụm hoa bông, hoa đực và hoa cái khác gốc. Quả mọng chứa một hạt. Cây thường mọc hoang trong rừng, nơi ẩm ướt dọc các bãi cát ven suối và phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc

Tích cực phòng trừ đạo ôn

Tích cực phòng trừ đạo ôn Dự báo, thời gian tới bệnh đạo ôn hại lá có thể gây hại trên diện rộng. Riêng đối với những diện tích lúa trỗ sớm trong tháng 4, bệnh đạo ôn cổ bông có khả năng phát sinh. (Ánh minh hoạ)   Vụ xuân năm nay, tỉnh Tuyên Quang gieo cấy 20.169 ha lúa, đạt 104,3% kế hoạch. Hiện lúa bước vào giai đoạn đẻ nhánh rộ đến đứng cái làm đòng; tuy nhiên thời tiết diễn biến bất thường, tạo điều kiện cho sâu bệnh phát sinh gây hại rải rác trên một số giống nhiễm như BC 15, HT 1, Bắc thơm số 7, nếp... với diện tích 7 ha tại các huyện Yên Sơn, Sơn Dương, Chiêm Hóa, TP Tuyên Quang..., tỷ lệ bệnh nơi cao 3 - 5 % số lá. Dự báo, thời gian tới bệnh đạo ôn hại lá có thể gây hại trên diện rộng. Riêng đối với những diện tích lúa trỗ sớm trong tháng 4, bệnh đạo ôn cổ bông có khả năng phát sinh.   Anh Vũ Đình Tám, Trưởng trạm BVTV huyện Yên Sơn cho biết, trạm đã phân công cán bộ, bám sát cơ sở phối hợp với khuyến nông hướng dẫn bà con thực hiện bón cân đối NPK, không bón quá nhiều ho

Định hướng dài hạn nhằm thu hút vốn FDI vào nông nghiệp

Định hướng dài hạn nhằm thu hút vốn FDI vào nông nghiệp Ảnh chỉ có tính minh họa. (Ảnh: Lê Bá Liễu/TTXVN) Là ngành có nhiều tiềm năng và lợi thế, song dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng hạn chế so với nhu cầu thu hút vốn và những kỳ vọng. Trong khi đầu tư nước ngoài của cả nước có xu hướng tăng, thì dòng vốn này vào lĩnh vực nông nghiệp lại quá nhỏ về quy mô dự án và tỷ trọng vốn đầu tư so với tổng đầu tư nước ngoài của cả nước. Điều này đang đòi hỏi ngành nông nghiệp phải có một chiến lược, định hướng dài hạn để thu hút vốn FDI. FDI trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn được đặc biệt coi trọng và được khuyến khích để bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp. Với quyết tâm vực dậy nguồn vốn này, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát nhấn mạnh Bộ sẽ rà soát lại cơ chế chính sách để thực sự khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, từ đó tạo m