Chuyển đến nội dung chính

Xác định đúng loại sâu bệnh để có giải pháp phòng trị kịp thời

Xác định đúng loại sâu bệnh để có giải pháp phòng trị kịp thời



Diện tích ca cao trong tỉnh còn không nhiều, từ trên 10.000ha nay giảm còn trên dưới 2.500ha. Hiện nay, ngoài kỹ thuật trồng, chăm sóc chưa đúng thì yếu tố sâu hại là vấn đề rất đáng lo ngại. 

http://www.baodongkhoi.com.vn/images/news/21.8.2015_7h29_P1560142.jpg
Đoàn cán bộ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kiểm tra kỹ thuật trồng ca cao tại xã An Phước, huyện Châu Thành

Do vậy, để ca cao phát triển khỏe mạnh, ổn định và bền vững thì cần có nghiên cứu sâu hơn các loài sâu bệnh để có giải pháp phòng trị kịp thời. Theo các chuyên gia Trường Đại học Cần Thơ, đề tài được tiến hành triển khai trên khắp địa bàn Bến Tre có trồng ca cao. Nội dung điều tra nghiên cứu tập trung vào các đối tượng cán bộ khoa học kỹ thuật và các hộ nông dân, đã khảo sát với 35 cán bộ làm công tác khuyến nông và 210 hộ dân trồng ca cao tại các huyện, thành phố.

Một số loại côn trùng gây hại
Qua kết quả điều tra, hiện có khoảng 7 loại côn trùng và 1 động vật gây hại trên ca cao đã được ghi nhận qua nhiều nông dân Bến Tre. Trong đó, bọ xít muỗi được xác định là loại côn trùng gây hại nguy hiểm nhất. Tỷ lệ gây hại từ 40 - 70% với mức độ thiệt hại 34,7% tại Châu Thành, 16,7% tại Mỏ Cày Nam. Bọ xít muỗi chủ yếu gây hại trên trái ca cao, cành, thân, chồi non.  Rệp sáp là loại côn trùng nông dân thường thấy trên bưởi da xanh, sa-bô-chê, xoài nhưng mức độ gây hại chỉ khoảng 8 - 15%. Nhiều loại côn trùng khác gây hại như sâu đục thân, bọ cánh cứng, sâu đục trái, rầy nhưng mức độ không cao. Riêng trên ca cao cũng thường xuất hiện một số bệnh như thối trái với mức độ thiệt hại từ 6,4 - 17%. Nhiều nông dân cho hay, bệnh loét thân, xì mủ thân cây cũng đã xuất hiện phổ biến trên ca cao. Bệnh cháy lá xuất hiện với tỷ lệ gây hại đến 12,5% tại TP. Bến Tre, 11% tại Mỏ Cày Bắc. Theo nhiều ý kiến của nông dân, các bệnh gây hại trên ca cao chủ yếu đều do nấm Phytophthora spp gây ra.

Mức độ gây hại và các biện pháp phòng trị
Theo điều tra ở nhiều hộ nông dân trồng ca cao, mức độ mẫn cảm với sâu bệnh của các giống ca cao đang trồng phổ biến tại Bến Tre chủ yếu tập trung ở các giống TD 10, TD 9, TD 8, TD 10 có nhiều mẫn cảm với bọ xít muỗi. Các giống còn lại như TD 3, TD 5, TD 6, TD 7, TD 11 ít mẫn cảm. Mặc dù tỷ lệ gây hại của bọ xít muỗi là khá cao nhưng tỷ lệ số hộ không áp dụng các biện pháp phòng trị cũng không nhỏ, biến động từ 38% tại Giồng Trôm đến 66,7% tại Mỏ Cày Nam. Hiện nay, nông dân chỉ áp dụng biện pháp nuôi kiến vàng để phòng trừ bọ xít muỗi, chiếm khoảng 13 - 55%, một số ít dùng thuốc hóa học. Các chuyên gia khuyến khích nhà vườn nên nuôi kiến đen sống cộng sinh rất chặt chẽ với rệp sáp, ăn thức ăn từ rệp sáp và được rệp sáp bảo vệ nhưng có điều rất lý thú là khi có kiến đen thì mật độ rệp sáp không cao và rệp sáp không thể trở thành dịch hại. Khi dùng thuốc hóa học ít có thể làm giảm chi phí và giá thành. Một lý do khác là hiện có nhiều dự án trồng ca cao theo tiêu chuẩn UTZ và ca cao hữu cơ nên nông dân có xu hướng giảm sử dụng hóa chất trên ca cao.

Đối với bệnh thối trái, tỷ lệ hộ nông dân không áp dụng biện pháp phòng trị còn nhiều hơn với bọ xít muỗi, biến động từ 58 - 100%. Để phòng trị bệnh này, nhà vườn áp dụng biện pháp hóa học, một số hộ áp dụng biện pháp cắt bỏ trái và chỉ có huyện Mỏ Cày Nam áp dụng biện pháp tỉa cành để phòng ngừa. Trong khi đó, nếu như ca cao không được tỉa cành, tạo tán thích hợp, gia tăng độ ẩm cho cây sẽ là điều kiện tốt cho nấm Phytophthora spp phát triển gây hại trái ca cao nên biện pháp tỉa cành là một kỹ thuật quan trọng để quản lý tổng hợp dịch bệnh hại ca cao.

Theo TS. Trần Văn Hâu, Trường Đại học Cần Thơ, tỷ lệ hộ nông dân không áp dụng các biện pháp phòng trừ bọ xít muỗi và bệnh thối trái có thể do giá ca cao giảm trong nhiều năm qua đã làm cho nông dân không còn mặn mà với việc trồng và chăm sóc ca cao nữa vì không có lời. Hiện ở Bến Tre có nhiều hộ sản xuất ca cao theo tiêu chuẩn UTZ và tiêu chuẩn ca cao hữu cơ, cho nên để hạn chế sử dụng thuốc hóa học, nhà vườn áp dụng biện pháp nuôi kiến trừ bọ xít muỗi. Bọ xít muỗi và bệnh thối trái do nấm Phytophthora spp gây hại là hai đối tượng gây hại chủ yếu trên ca cao tại Bến Tre. Mức độ mẫn cảm với sâu bệnh khác nhau tùy theo từng loại giống. Vì thế, cần tuyển chọn và phổ biến những giống tương đối kháng hay ít nhiễm sâu bệnh để giảm mức độ thiệt hại cho nông dân. Cần áp dụng một số các biện pháp canh tác như tỉa cành, tạo tán để hạn chế việc phát triển sâu bệnh thối trái, xử lý vỏ sau khi tách hột để hạn chế sâu bệnh gây hại.
(Tin tức Tây Đô - Theo baodongkhoi.com.vn)

Bài đăng phổ biến từ blog này

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu Xuất hiện trong nhiều món ăn quen thuộc và có nhiều tác dụng khác nhau nên lá lốt được trồng ở khắp nơi. Người dân chỉ cần chú ý theo một số kỹ thuật trồng cây dưới đây là có thể tự cung cấp rau cho gia đình. Cây lá lốt có tên khoa học là Piper lolot, thuộc họ  hồ tiêu  (Piperaceae) và có  kỹ thuật trồng cây  rất đơn giản. Lá lốt là loại rau quen thuộc và được dùng phổ biến trong các bữa ăn. Lá lốt thường được sử dụng ăn sống như các loại rau thơm hoặc làm rau gia vị khi nấu canh. Ngoài là rau ăn lá, lá lốt còn là vị thuốc chữa nhiều bệnh, khi dùng có thể dùng tươi, phơi hay sấy khô. Lá lốt có kỹ thuật trồng cây không quá khó Đây là loài cây thảo sống nhiều năm, thân có rãnh dọc. Lá đơn nguyên, mọc so le, hình tim, có màu xanh đậm, mặt lá bóng. Hoa mọc từ nách lá, cụm hoa bông, hoa đực và hoa cái khác gốc. Quả mọng chứa một hạt. Cây thường mọc hoang trong rừng, nơi ẩm ướt dọc các bãi cát ven suối và phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc

Những cây trồng mang lợi nhuận tỷ đô tại Việt Nam

Những cây trồng mang lợi nhuận tỷ đô tại Việt Nam Thị trường giống cây trồng Việt Nam có nhiều biến động mạnh trong suốt nhiều năm qua, đặc biệt là giống cây trồng các loại hạt được liệt vào danh sách siêu thực phẩm, cho giá trị kinh tế hàng tỷ USD. Cao lương Cây cao lương hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao lên tới hàng tỷ USD Cây cao lương vốn không còn là loại cây xa lạ với người Việt Nam, từ những năm 70, 80 của thế kỷ trước người dân đã tròng nhiều và dung làm lương thực thay thế gạo lúc đói kém.   Sau hàng chục năm không mang lại hiệu quả gì về kinh tế thì Tập đoàn Sol Holding (Nhật Bản) đã mang giống cao lương trở lại Việt Nam với nhiều hứa hẹn hấp dẫn về giá trị kinh tế. Theo ý kiến từ công ty này, đây là giống cây siêu cao lương được các nhà khoa học Nhật Bản lai tạo đưa lại năng suất cao và đáp ứng nhiều mục đích khác nhau. Ngoài mục đích làm thức ăn chăn nuôi, chúng còn được sử dụng để chế biến viên nén sinh

Chăn nuôi nông hộ giúp gì cho nông dân?

Chăn nuôi nông hộ giúp gì cho nông dân? Nhiều hộ dân xã An Dương (Tân Yên, Bắc Giang) đầu tư phát triển chăn nuôi đạt hiệu quả kinh tế cao. LTS - Tiếp tục cuộc thi viết về: "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn" do Báo Nhân Dânphối hợp Hội Nông dân Việt Nam và Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất dầu khí (Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam) tổ chức, bắt đầu từ hôm nay (17-4), chúng tôi sẽ lần lượt đăng các bài gửi tham dự cuộc thi năm 2014 với chủ đề: "Tái cơ cấu nông nghiệp, gắn với xây dựng nông thôn mới". Rất mong nhận được sự cộng tác của các cộng tác viên và bạn đọc. Đối với sản xuất nông nghiệp nông hộ, có thể coi ngành chăn nuôi như là "nhà máy chế biến" các sản phẩm phụ trồng trọt mà con người không ăn được (rơm cỏ, thân, lá, rễ, hạt) hoặc sản phẩm phụ có dinh dưỡng thấp (cám, bã...) để tạo ra những sản phẩm cao cấp, đó là thịt, trứng, sữa... Chính sự liên kết giữa trồng trọt và chăn nuôi đã tạo nên sức mạnh