Chuyển đến nội dung chính

Tôm, cá Việt chinh phục “ông lớn”

Tôm, cá Việt chinh phục “ông lớn”


Trải qua gần 20 năm kể từ những ngày đầu “lò dò” đặt chân đến thị trường Mỹ, tôm cá Việt Nam hiện đã giành được thị phần khá ổn định, lọt vào danh sách những sản phẩm thủy sản được ưa thích tại Mỹ.

Chinh phục “ông lớn” Mỹ
Năm 1994, những lô hàng thủy sản đầu tiên của Việt Nam xuất hiện tại thị trường Mỹ. Dù giá trị kim ngạch trong những năm đầu tiên còn rất khiêm tốn, chỉ khoảng 6 triệu USD, tuy nhiên, theo đánh giá, việc đặt chân được đến thị trường rộng lớn này đã mở ra cơ hội mới cho ngành thủy sản Việt Nam.

Tom, ca Viet chinh phuc “ong lon”
 
Đến năm 2001, Mỹ lọt vào danh sách các nước nhập khẩu chính của thủy sản Việt Nam với tổng giá trị khoảng 500 triệu USD, chiếm khoảng 28,4% thị phần. Hiện tại, Mỹ là thị trường lớn nhất của thủy sản xuất khẩu Việt Nam ở 4 mặt hàng, gồm tôm, cá tra, cá ngừ và cua ghẹ.

Là sản phẩm xuất khẩu chính của thủy sản Việt Nam, mặt hàng tôm đông lạnh cũng đã có mặt tại thị trường Mỹ từ đầu những năm 2000. Đặc biệt, xuất khẩu tôm sang Mỹ tăng mạnh trong năm 2013 với giá trị kim ngạch đạt khoảng 831 triệu USD, tăng 82,5% so với năm 2012.
Bên cạnh tôm, cá tra cũng được xem là “con cá vàng” của thủy sản Việt Nam tại thị trường Mỹ. Năm 2009, lần đầu tiên cá tra, cá basa Việt Nam lọt vào danh sách thủy sản được tiêu thụ nhiều nhất tại Mỹ, xếp ở vị trí thứ 10, với mức tiêu thụ bình quân 0,356 pound/người (1pound = 0,45kg). Kể từ đó đến nay, loài cá này đã không ngừng “thăng hạng” tại Mỹ. Năm 2011, với mức tiêu thụ bình quân đạt 0,628 pound/người, tăng thêm 0,223 pound so với 0,405 pound trong năm 2010, cá tra Việt Nam lần đầu tiên vượt qua cả cá da trơn Mỹ nhảy từ vị trí số 9 lên vị trí thứ 6 trong bảng xếp hạng 10 loại thủy sản được tiêu thụ nhiều nhất tại Mỹ, tức tăng thêm 3 bậc so với năm trước đó.
Ông Trương Đình Hòe – Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến, Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, sự gia tăng nhanh chóng của xuất khẩu cá tra vào Mỹ đã khẳng định vị trí loại thủy sản này trong lòng người tiêu dùng Mỹ. Hiện tại, Mỹ là thị trường lớn nhất của thủy sản Việt Nam, chiếm khoảng 22% thị phần trong năm 2014.
Biển to, sóng lớn
Cũng theo ông Trương Đình Hòe, thị trường Mỹ là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhưng cũng là thị trường phức tạp nhất và khó khăn nhất bởi các tranh chấp thương mại hay các yêu cầu kỹ thuật khắt khe trong xuất nhập khẩu hàng hóa...
Theo đó, những vụ kiện chống bán phá giá, vụ kiện chống trợ cấp đối với mặt hàng tôm đông lạnh… đã khiến nhiều doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào Mỹ gặp nhiều khó khăn.
Ông Trần Văn Lĩnh – Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Thương mại Thủy sản Thuận Phước (Đà Nẵng), cho rằng, cùng với sự tăng trưởng của xuất khẩu tôm cá Việt Nam vào Mỹ, hoạt động sản xuất, nuôi trồng thủy sản nội địa nước này ngày càng teo tóp. Do đó, hàng rào thuế quan và các yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng là cách để Chính phủ nước này bảo vệ người tiêu dùng và ngành sản xuất trong nước.
Việc áp thuế chống bán phá giá lên tôm, cá nhiều lần khiến doanh nghiệp Việt gần như phải buông bỏ thị trường Mỹ, lượng xuất khẩu giảm rõ rệt. Cụ thể, sau khi lần đầu tiên đối mặt với vụ kiện chống bán phá giá vào cuối năm 2002, lượng cá tra Việt Nam tại thị trường Mỹ đã giảm từ 5.000 tấn năm 2003 xuống còn 274 tấn năm 2005. Mới đây nhất, trong quý I.2015, xuất khẩu thủy sản vào Mỹ đã giảm đến 44% so với cùng kỳ năm trước do bị áp thuế cao.
Cùng với đó, các doanh nghiệp Việt Nam liên tục bị cảnh báo về tình trạng nhiễm khuẩn, kháng sinh… khi Mỹ thắt chặt kiểm tra, kiểm soát hàng thủy sản nhập khẩu. Năm 2014, số lô hàng bị cảnh báo nhiễm kháng sinh tại Mỹ cũng tăng 1,6 lần, lên 58 lô. Mặt hàng thủy sản bị cảnh báo nhiều nhất là tôm và cá tra, một số ít là cá rô, lươn, ếch. Hay như gần đây, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu cá ngừ đại dương đi Mỹ gặp khó khăn, bị trả hàng liên tục vì cá nhiễm vi sinh như khuẩn E.Coli, Salmonella…
 Năm 2011, Mỹ lọt vào danh sách các nước nhập khẩu chính của thủy sản Việt Nam với tổng giá trị khoảng 500 triệu USD, chiếm khoảng 28,4% thị phần. Hiện tại, Mỹ là thị trường lớn nhất của thủy sản xuất khẩu Việt Nam ở 4 mặt hàng, gồm tôm, cá tra, cá ngừ và cua ghẹ.  
(Nguồn: taydo)

Bài đăng phổ biến từ blog này

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu Xuất hiện trong nhiều món ăn quen thuộc và có nhiều tác dụng khác nhau nên lá lốt được trồng ở khắp nơi. Người dân chỉ cần chú ý theo một số kỹ thuật trồng cây dưới đây là có thể tự cung cấp rau cho gia đình. Cây lá lốt có tên khoa học là Piper lolot, thuộc họ  hồ tiêu  (Piperaceae) và có  kỹ thuật trồng cây  rất đơn giản. Lá lốt là loại rau quen thuộc và được dùng phổ biến trong các bữa ăn. Lá lốt thường được sử dụng ăn sống như các loại rau thơm hoặc làm rau gia vị khi nấu canh. Ngoài là rau ăn lá, lá lốt còn là vị thuốc chữa nhiều bệnh, khi dùng có thể dùng tươi, phơi hay sấy khô. Lá lốt có kỹ thuật trồng cây không quá khó Đây là loài cây thảo sống nhiều năm, thân có rãnh dọc. Lá đơn nguyên, mọc so le, hình tim, có màu xanh đậm, mặt lá bóng. Hoa mọc từ nách lá, cụm hoa bông, hoa đực và hoa cái khác gốc. Quả mọng chứa một hạt. Cây thường mọc hoang trong rừng, nơi ẩm ướt dọc các bãi cát ven suối và phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc

Những cây trồng mang lợi nhuận tỷ đô tại Việt Nam

Những cây trồng mang lợi nhuận tỷ đô tại Việt Nam Thị trường giống cây trồng Việt Nam có nhiều biến động mạnh trong suốt nhiều năm qua, đặc biệt là giống cây trồng các loại hạt được liệt vào danh sách siêu thực phẩm, cho giá trị kinh tế hàng tỷ USD. Cao lương Cây cao lương hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao lên tới hàng tỷ USD Cây cao lương vốn không còn là loại cây xa lạ với người Việt Nam, từ những năm 70, 80 của thế kỷ trước người dân đã tròng nhiều và dung làm lương thực thay thế gạo lúc đói kém.   Sau hàng chục năm không mang lại hiệu quả gì về kinh tế thì Tập đoàn Sol Holding (Nhật Bản) đã mang giống cao lương trở lại Việt Nam với nhiều hứa hẹn hấp dẫn về giá trị kinh tế. Theo ý kiến từ công ty này, đây là giống cây siêu cao lương được các nhà khoa học Nhật Bản lai tạo đưa lại năng suất cao và đáp ứng nhiều mục đích khác nhau. Ngoài mục đích làm thức ăn chăn nuôi, chúng còn được sử dụng để chế biến viên nén sinh

Chăn nuôi nông hộ giúp gì cho nông dân?

Chăn nuôi nông hộ giúp gì cho nông dân? Nhiều hộ dân xã An Dương (Tân Yên, Bắc Giang) đầu tư phát triển chăn nuôi đạt hiệu quả kinh tế cao. LTS - Tiếp tục cuộc thi viết về: "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn" do Báo Nhân Dânphối hợp Hội Nông dân Việt Nam và Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất dầu khí (Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam) tổ chức, bắt đầu từ hôm nay (17-4), chúng tôi sẽ lần lượt đăng các bài gửi tham dự cuộc thi năm 2014 với chủ đề: "Tái cơ cấu nông nghiệp, gắn với xây dựng nông thôn mới". Rất mong nhận được sự cộng tác của các cộng tác viên và bạn đọc. Đối với sản xuất nông nghiệp nông hộ, có thể coi ngành chăn nuôi như là "nhà máy chế biến" các sản phẩm phụ trồng trọt mà con người không ăn được (rơm cỏ, thân, lá, rễ, hạt) hoặc sản phẩm phụ có dinh dưỡng thấp (cám, bã...) để tạo ra những sản phẩm cao cấp, đó là thịt, trứng, sữa... Chính sự liên kết giữa trồng trọt và chăn nuôi đã tạo nên sức mạnh