Chuyển đến nội dung chính

Thị phần máy cơ giới nông nghiệp Việt vẫn khiêm tốn

Thị phần máy cơ giới nông nghiệp Việt vẫn khiêm tốn


Phong trào đưa máy móc cơ giới vào sản xuất nông nghiệp đang diễn ra nhanh và rộng khắp ở hầu hết các địa phương trong tỉnh. Tuy nhiên, cũng như nhiều tỉnh đồng bằng sông Hồng, các loại máy mang thương hiệu Việt được sử dụng tại Bắc Ninh vẫn còn khá khiêm tốn và phải canh tranh mạnh mẽ với các máy cơ giới ngoại.
 
Theo báo cáo, toàn tỉnh hiện có 4.950 chiếc máy kéo phục vụ khâu làm đất, 900 chiếc công cụ gieo rải hàng và 3 máy cấy, 7.081 máy tuốt lúa có động cơ và máy tuốt lúa liên hoàn; 5 chiếc máy gặt đập liên hợp, 3.832 chiếc máy xay xát gạo phục vụ trong nông thôn... Máy cơ giới được áp dụng cho hầu hết các khâu trồng trọt từ sản phẩm đơn giản như máy cắt cỏ có giá vài triệu đồng đến các loại máy cày, máy gặt đập liên hợp trị giá vài trăm triệu đồng. 

Tuy nhiên, theo ông Trần Xuân Dẫn, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông-Khuyến ngư tỉnh, các loại máy nông nghiệp của Việt Nam sản xuất chỉ mang tính chất bán cơ giới hoặc áp dụng cho một số khâu đơn giản. Riêng các loại máy công suất lớn như máy làm đất, máy gặt đập liên hợp, tỷ lệ sản phẩm mang thương hiệu Việt chỉ chiếm chưa đến 20%.

 
Đại lý phân phối máy nông nghiệp Kubota tại Bắc Ninh với chính sách bán hàng chuyên nghiệp ngày càng được nhiều nông dân tìm đến.
 
Xét về cả chất lượng và mẫu mã sản phẩm, những máy cơ giới của Tổng công ty máy động lực và máy nông nghiệp (VEAM), Tổng công ty cơ điện nông nghiệp và thủy lợi hay các doanh nghiệp tư nhân như Tư Sang (Tiền Giang), Vạn Phú (Đồng Tháp) vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Cụ thể, theo đánh giá của nông dân, hàng Việt Nam có đặc điểm chung là đơn điệu về chủng loại sản phẩm; mẫu mã và tính năng chưa theo kịp nhu cầu canh tác của nông dân. Cùng với đó, các phụ tùng đi kèm có độ bền không cao, khó thay thế, sửa chữa do khan hiếm hàng.

Ông Trịnh Văn Lực, Chủ nhiệm HTX thôn Tuyên Bá, xã Quảng Phú (Lương Tài)-một trong những địa phương có số máy gặt đập liên hợp nhiều nhất huyện cho biết: “Chúng tôi chấp nhận chi phí cao để hạn chế rủi ro trong khi làm dịch vụ, vì vào đợt cao điểm, chỉ một lần hỏng hóc có thể ảnh hưởng đến cả thời vụ thu hoạch. Nhiều hộ dân trong HTX đã mạnh dạn đầu tư máy gặt đập của hãng Kubota của Nhật Bản với ưu điểm là tỷ lệ thất thoát thấp, di chuyển nhanh trong điều kiện ruộng sình lầy, phù hợp với đồng đất địa phương”.

 Chưa kể, trong khi các sản phẩm máy nông nghiệp do doanh nghiệp tư  nhân ở đồng bằng sông Cửu Long có mức độ phổ biến thấp, nhiều nông dân phải vào tận miền Nam để mua thì các hãng của Nhật Bản hay Trung Quốc đều đã xây dựng kênh phân phối ở nhiều tỉnh thành để tiếp cận nhiều đối tượng khách hàng.

Đại diện công ty CP Sản xuất và thương mại Việt Thành (Võ Cường, TP.Bắc Ninh), đại lý của hãng Kubota tại Bắc Ninh cho biết, bên cạnh việc không ngừng cải tiến, đa dạng sản phẩm, hãng còn đưa ra chế độ bảo hành cho từng dòng máy. Cán bộ kỹ thuật của hãng thường xuyên hướng dẫn cho các chủ máy xử lý sự cố kịp thời, qua đó, tạo sự an tâm cho cả chủ máy và người thuê dịch vụ. Chính vì vậy, những năm qua, mặc dù chưa nhận được sự hỗ trợ đáng kể nào, nhưng nông dân vẫn sẵn sàng bỏ ra vài trăm triệu đồng cho một sản phẩm cơ giới nhập khẩu. Thực tế, một số loại máy móc mới do doanh nghiệp Việt sản xuất không cạnh tranh nổi với các sản phẩm đã qua sử dụng xuất xứ từ Nhật Bản.

Mới đây, gói vay hỗ trợ lãi suất để mua máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp theo Quyết định 68/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã bỏ quy định chỉ được mua sản phẩm nội địa (có hơn 60% giá trị được sản xuất trong nước) được xem là cơ hội tốt cho nông dân đẩy mạnh ứng dụng cơ giới hóa vào sản xuất. Tuy nhiên, với việc không còn cơ chế hỗ trợ này, máy nông nghiệp Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt hơn với hàng ngoại. Vì vậy, để người dân không “quay lưng” với sản phẩm cơ giới Việt, các doanh nghiệp trong nước cần không ngừng đầu tư nghiên cứu công nghệ, cải tiến máy móc, thiết bị cho phù hợp với nhu cầu ngày càng cao của nông dân, đồng thời, đa dạng phương thức tiếp cận khách hàng để sản phẩm cơ giới Việt ngày càng phục vụ đắc lực cho sự phát triển của nền nông nghiệp Việt Nam.

(Nguồn: taydojsc.com.vn)

Bài đăng phổ biến từ blog này

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu Xuất hiện trong nhiều món ăn quen thuộc và có nhiều tác dụng khác nhau nên lá lốt được trồng ở khắp nơi. Người dân chỉ cần chú ý theo một số kỹ thuật trồng cây dưới đây là có thể tự cung cấp rau cho gia đình. Cây lá lốt có tên khoa học là Piper lolot, thuộc họ  hồ tiêu  (Piperaceae) và có  kỹ thuật trồng cây  rất đơn giản. Lá lốt là loại rau quen thuộc và được dùng phổ biến trong các bữa ăn. Lá lốt thường được sử dụng ăn sống như các loại rau thơm hoặc làm rau gia vị khi nấu canh. Ngoài là rau ăn lá, lá lốt còn là vị thuốc chữa nhiều bệnh, khi dùng có thể dùng tươi, phơi hay sấy khô. Lá lốt có kỹ thuật trồng cây không quá khó Đây là loài cây thảo sống nhiều năm, thân có rãnh dọc. Lá đơn nguyên, mọc so le, hình tim, có màu xanh đậm, mặt lá bóng. Hoa mọc từ nách lá, cụm hoa bông, hoa đực và hoa cái khác gốc. Quả mọng chứa một hạt. Cây thường mọc hoang trong rừng, nơi ẩm ướt dọc các bãi cát ven suối và phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc

Những cây trồng mang lợi nhuận tỷ đô tại Việt Nam

Những cây trồng mang lợi nhuận tỷ đô tại Việt Nam Thị trường giống cây trồng Việt Nam có nhiều biến động mạnh trong suốt nhiều năm qua, đặc biệt là giống cây trồng các loại hạt được liệt vào danh sách siêu thực phẩm, cho giá trị kinh tế hàng tỷ USD. Cao lương Cây cao lương hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao lên tới hàng tỷ USD Cây cao lương vốn không còn là loại cây xa lạ với người Việt Nam, từ những năm 70, 80 của thế kỷ trước người dân đã tròng nhiều và dung làm lương thực thay thế gạo lúc đói kém.   Sau hàng chục năm không mang lại hiệu quả gì về kinh tế thì Tập đoàn Sol Holding (Nhật Bản) đã mang giống cao lương trở lại Việt Nam với nhiều hứa hẹn hấp dẫn về giá trị kinh tế. Theo ý kiến từ công ty này, đây là giống cây siêu cao lương được các nhà khoa học Nhật Bản lai tạo đưa lại năng suất cao và đáp ứng nhiều mục đích khác nhau. Ngoài mục đích làm thức ăn chăn nuôi, chúng còn được sử dụng để chế biến viên nén sinh

Chăn nuôi nông hộ giúp gì cho nông dân?

Chăn nuôi nông hộ giúp gì cho nông dân? Nhiều hộ dân xã An Dương (Tân Yên, Bắc Giang) đầu tư phát triển chăn nuôi đạt hiệu quả kinh tế cao. LTS - Tiếp tục cuộc thi viết về: "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn" do Báo Nhân Dânphối hợp Hội Nông dân Việt Nam và Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất dầu khí (Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam) tổ chức, bắt đầu từ hôm nay (17-4), chúng tôi sẽ lần lượt đăng các bài gửi tham dự cuộc thi năm 2014 với chủ đề: "Tái cơ cấu nông nghiệp, gắn với xây dựng nông thôn mới". Rất mong nhận được sự cộng tác của các cộng tác viên và bạn đọc. Đối với sản xuất nông nghiệp nông hộ, có thể coi ngành chăn nuôi như là "nhà máy chế biến" các sản phẩm phụ trồng trọt mà con người không ăn được (rơm cỏ, thân, lá, rễ, hạt) hoặc sản phẩm phụ có dinh dưỡng thấp (cám, bã...) để tạo ra những sản phẩm cao cấp, đó là thịt, trứng, sữa... Chính sự liên kết giữa trồng trọt và chăn nuôi đã tạo nên sức mạnh