Chuyển đến nội dung chính

Bảo hiểm nông nghiệp, tín dụng xuất khẩu: Khó phát triển


Bảo hiểm dành cho thủy sản, cụ thể là con tôm khá khó khăn.
Những năm vừa qua, Nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ khuyến khích dành cho các đối tượng ưu tiên như DN xuất khẩu hay người nông dân. Trong đó, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và bảo hiểm sản phẩm nông nghiệp là 2 chính sách hỗ trợ thiết thực nhưng kết quả thực hiện không như mong muốn.
Cả năm có 30 hợp đồng
Theo số liệu của Hiệp hội Bảo hiểm, giai đoạn 2011-2012 bảo hiểm xuất khẩu thu được 13 tỉ đồng phí nhưng bồi thường hơn 15 tỉ đồng. Năm 2013 chỉ thu được 6,5 tỉ đồng của 30 hợp đồng, nhưng các hợp đồng còn thời hạn đến năm 2014 và chưa có phát sinh bồi thường. Có thể nói, chính sách bảo hiểm tín dụng xuất khẩu đã không đạt kết quả như mong muốn của Chính phủ khi triển khai chương trình.
Theo chuyên gia bảo hiểm, có nhiều nguyên nhân khiến bảo hiểm tín dụng không phát triển mặc dù được Nhà nước hỗ trợ tới 20% phí, trong đó quan trọng nhất là nhận thức của DN xuất khẩu Việt Nam.
Các DN xuất khẩu Việt Nam chưa lo xa trong khai thác thị trường. Tăng trưởng xuất khẩu Việt Nam tăng khá nhanh sau khi vào WTO nên nhiều quốc gia dựng hàng rào kỹ thuật để hạn chế hàng hóa của Việt Nam.
Vì vậy, các DN luôn phải ý thức việc đi tìm thị trường mới, khách hàng mới, thậm chí hàng hóa mới. Để có thị trường, khách hàng mới thì yếu tố cạnh tranh chính là việc bán chịu cho nhà nhập khẩu. Thực tế nhiều DN Việt Nam đã được mua hàng từ đối tác nước ngoài thông qua hình thức này như máy bay, máy móc, thiết bị,...
Bản chất của việc bán chịu là người bán lo tín dụng cho người mua. Vì thế, DN xuất khẩu mua bảo hiểm tín dụng xuất khẩu sẽ được chi trả nếu như người mua không thanh toán.
“Đây là biện pháp để khuyến khích các thương nhân Việt Nam mạnh dạn đi tìm thị trường mới, khách hàng mới. Tuy nhiên, nhiều DN Việt Nam chưa nhận thức được hoặc nếu có bán chịu thì DN cũng tự lo tín dụng hoặc xin xác nhận của NH”- ông Phùng Đắc Lộc, Tổng Thư ký Hiệp hội Bảo hiểm - nói.
Bên cạnh đó, các NHTM cũng không mặn mà ủng hộ chính sách bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, vì đây là sản phẩm cạnh tranh với NH. Tuy nhiên, việc thu phí xác nhận tín dụng của các NH cũng không thể phát triển bởi luật quy định NH hạn chế tín dụng cho 1 khách hàng không quá 10% vốn chủ sở hữu hoặc không quá vốn chủ sở hữu của DN.
Còn các DNBH thì do ít khách hàng mà vốn đầu tư cho xây dựng, quản lý sản phẩm tín dụng xuất khẩu khá cao nên phí bảo hiểm cho 1 hợp đồng rất cao, khiến DN không có lãi. Vì vậy, DNBH chán nản không muốn tiếp tục đầu tư để phát triển.
Phổ biến trục lợi bảo hiểm con tôm
Với chính sách bảo hiểm nông nghiệp, đối tượng hướng tới chủ yếu là người nông dân. Theo đánh giá của các DNBH, bảo hiểm nông nghiệp đối với cây lúa và chăn nuôi khá triển vọng, riêng có bảo hiểm dành cho thủy sản, cụ thể là con tôm thì khá khó khăn.
Khó khăn đầu tiên phải kể đến là chính sách áp dụng bảo hiểm thủy sản không theo quy luật số đông. Vùng được triển khai không thuộc 1 tỉnh hay 1 huyện mà trong 1 tỉnh chọn 3 huyện, và mỗi huyện 3 xã được thực hiện. Điều này gây khó cho DNBH khi triển khai cán bộ theo dõi, dẫn đến không thể giám sát.
Lực lượng cán bộ bị phân tán nhưng đền bù lại theo hóa đơn mua con giống, thức ăn và độ ngày tuổi nên tạo ra kẽ hở cho người nuôi trục lợi. Có trường hợp người nuôi tôm báo tôm chết, cán bộ đến kiểm tra thì thấy rêu đã mọc kín ao cho thấy tôm hoặc chết đã lâu hoặc không thả nuôi. Tuy nhiên, do có đủ hóa đơn, chứng từ, thuộc vùng được bảo hiểm nên DNBH không thể từ chối chi trả.
“Ít người nên DNBH không kiểm tra xem người dân có thả tôm đúng ngày không vì tôm từ ngày thứ 55 trở đi đã có thể tận thu. Cũng có trường hợp người nuôi mua tôm giống, thức ăn bảo hiểm cho ao này nhưng nuôi thả ao khác ngoài vùng được bảo hiểm” – ông Lộc chia sẻ.
Bên cạnh nguyên nhân chủ quan thì một nguyên nhân khách quan là sản phẩm bảo hiểm con tôm được triển khai đúng thời kỳ tôm bệnh nhiều nên các DNBH chịu nhiều thiệt hại. Tổng số tiền bồi thường lên tới 600 tỉ đồng nhưng phí thu được chỉ 170 tỉ đồng. Các DN tái bảo hiểm không dám nhận vì bồi thường và rủi ro quá lớn khiến các DNBH phải “bỏ chạy”.
Gánh chịu thiệt hại đó không ai khác ngoài nhà nước. Bởi thực tế, chính sách hỗ trợ người nghèo mua bảo hiểm là 100%, hộ cận nghèo 80%, còn nông dân bình thường là 60% nên chủ yếu chỉ có hộ nghèo và cận nghèo tham gia. Do đó, phí bảo hiểm Nhà nước vừa mất, đồng thời mất tiền bồi thường.
Nhà nước luôn cố gắng ban hành chính sách nhằm hỗ trợ DN, người dân kinh doanh, nhưng rõ ràng những “thất bại tạm thời” trong triển khai cần có thay đổi trong cơ chế, chính sách thực hiện, nếu không khó khăn đó sẽ chuyển thành “thất bại thực sự”
(Nguồn: laodong.com.vn)

Bài đăng phổ biến từ blog này

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu Xuất hiện trong nhiều món ăn quen thuộc và có nhiều tác dụng khác nhau nên lá lốt được trồng ở khắp nơi. Người dân chỉ cần chú ý theo một số kỹ thuật trồng cây dưới đây là có thể tự cung cấp rau cho gia đình. Cây lá lốt có tên khoa học là Piper lolot, thuộc họ  hồ tiêu  (Piperaceae) và có  kỹ thuật trồng cây  rất đơn giản. Lá lốt là loại rau quen thuộc và được dùng phổ biến trong các bữa ăn. Lá lốt thường được sử dụng ăn sống như các loại rau thơm hoặc làm rau gia vị khi nấu canh. Ngoài là rau ăn lá, lá lốt còn là vị thuốc chữa nhiều bệnh, khi dùng có thể dùng tươi, phơi hay sấy khô. Lá lốt có kỹ thuật trồng cây không quá khó Đây là loài cây thảo sống nhiều năm, thân có rãnh dọc. Lá đơn nguyên, mọc so le, hình tim, có màu xanh đậm, mặt lá bóng. Hoa mọc từ nách lá, cụm hoa bông, hoa đực và hoa cái khác gốc. Quả mọng chứa một hạt. Cây thường mọc hoang trong rừng, nơi ẩm ướt dọc các bãi cát ven suối và phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc

Những cây trồng mang lợi nhuận tỷ đô tại Việt Nam

Những cây trồng mang lợi nhuận tỷ đô tại Việt Nam Thị trường giống cây trồng Việt Nam có nhiều biến động mạnh trong suốt nhiều năm qua, đặc biệt là giống cây trồng các loại hạt được liệt vào danh sách siêu thực phẩm, cho giá trị kinh tế hàng tỷ USD. Cao lương Cây cao lương hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao lên tới hàng tỷ USD Cây cao lương vốn không còn là loại cây xa lạ với người Việt Nam, từ những năm 70, 80 của thế kỷ trước người dân đã tròng nhiều và dung làm lương thực thay thế gạo lúc đói kém.   Sau hàng chục năm không mang lại hiệu quả gì về kinh tế thì Tập đoàn Sol Holding (Nhật Bản) đã mang giống cao lương trở lại Việt Nam với nhiều hứa hẹn hấp dẫn về giá trị kinh tế. Theo ý kiến từ công ty này, đây là giống cây siêu cao lương được các nhà khoa học Nhật Bản lai tạo đưa lại năng suất cao và đáp ứng nhiều mục đích khác nhau. Ngoài mục đích làm thức ăn chăn nuôi, chúng còn được sử dụng để chế biến viên nén sinh

Chăn nuôi nông hộ giúp gì cho nông dân?

Chăn nuôi nông hộ giúp gì cho nông dân? Nhiều hộ dân xã An Dương (Tân Yên, Bắc Giang) đầu tư phát triển chăn nuôi đạt hiệu quả kinh tế cao. LTS - Tiếp tục cuộc thi viết về: "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn" do Báo Nhân Dânphối hợp Hội Nông dân Việt Nam và Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất dầu khí (Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam) tổ chức, bắt đầu từ hôm nay (17-4), chúng tôi sẽ lần lượt đăng các bài gửi tham dự cuộc thi năm 2014 với chủ đề: "Tái cơ cấu nông nghiệp, gắn với xây dựng nông thôn mới". Rất mong nhận được sự cộng tác của các cộng tác viên và bạn đọc. Đối với sản xuất nông nghiệp nông hộ, có thể coi ngành chăn nuôi như là "nhà máy chế biến" các sản phẩm phụ trồng trọt mà con người không ăn được (rơm cỏ, thân, lá, rễ, hạt) hoặc sản phẩm phụ có dinh dưỡng thấp (cám, bã...) để tạo ra những sản phẩm cao cấp, đó là thịt, trứng, sữa... Chính sự liên kết giữa trồng trọt và chăn nuôi đã tạo nên sức mạnh