Chuyển đến nội dung chính

Trồng lúa ngày càng nhiều sâu, bệnh

Trồng lúa ngày càng nhiều sâu, bệnh
 

Đó là tâm sự của nhiều nông dân cũng như các ngành chuyên môn về tình hình dịch bệnh ngày càng nhiều và diễn biến khá phức tạp. Theo họ, nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do các yếu tố từ biến đổi khí hậu gây ra. Từ đó, sâu, bệnh hoành hành trên trà lúa của các vụ trong năm.


Nông dân phun thuốc trừ bệnh hại lúa tại huyện Cái Bè.
Nông dân phun thuốc trừ bệnh hại lúa tại huyện Cái Bè.
Giữa cái nắng như đổ lửa, ông Lê Văn Mập, ấp Tân Hưng Đông, xã Tân Hòa Tây, huyện Tân Phước vẫn mang bình ra ruộng phun thuốc trừ rầy. Mùi hôi nồng nặc cộng với cái nắng gay gắt khiến khuôn mặt ông bơ phờ. Bước lên bờ ranh ngồi nghỉ mệt, ông Mập cho biết: “0,8 ha lúa IR 50404 của gia đình mới được 45 ngày tuổi mà phun thuốc trừ sâu, bệnh gần cả chục lần rồi. Hết sâu đục thân, bệnh cháy lá, rầy nâu… đến phun ngừa bệnh muỗi hành. Đặc biệt, năm nay, tình trạng sâu cắn lá xuất hiện rất nhiều, gây hại trên diện rộng. Mới 1,5 tháng, nông dân tốn 600.000 – 700.000 đồng mua thuốc trừ sâu, bệnh; ai canh tác giỏi cũng phải tốn khoảng 500.000 đồng. Nếu so với vụ hè thu năm rồi, người dân phải tốn gần gấp đôi chi phí. Tình trạng như vậy, vụ lúa này nông dân khó có lãi, thậm chí lỗ vốn nặng”.
Tại huyện Cái Bè, tình hình sâu, rầy diễn biến cũng khá phức tạp. Khu ruộng của ông Nguyễn Văn Bửu, ấp Hậu Quới, xã Hậu Mỹ Bắc B có 1,5 ha trồng lúa IR 50404 nhưng đã bị cháy rầy hơn 0,2 ha, diện tích còn lại cũng bị lốm đốm chỗ cháy rầy. Ông Bửu cho biết, gia đình bận công việc nên không ra thăm đồng thường xuyên. Chỉ mới 5 ngày, rầy nâu đã đeo tới ngọn. Ông phải tức tốc bơm nước vào và mua thuốc phun rầy nâu ngay. Vậy mà, xử lý không kịp, 0,2 ha lúa bị cháy hầu như hoàn toàn, 1,3 ha còn lại bị cháy khoảng 20%. “Vụ hè thu này, sâu, bệnh diễn biến quá phức tạp nên chi phí khá cao. Chứ vụ này năm rồi làm khỏe lắm, một tuần không ra thăm đồng cũng chẳng sao”- ông Bửu nói. Sau khi xảy ra tình trạng cháy rầy, ông Bửu đã sử dụng nhiều thuốc để diệt nhưng cũng không hết. Theo ông Bửu, thời điểm này trăng sáng, đáng lẽ rầy nâu bay đi nhưng nó vẫn đeo bám cây lúa, gây không ít khó khăn cho nông dân.
Gần đó, ông Nguyễn Văn Hoàng canh tác 2 ha lúa IR 50404 được 40 ngày tuổi mà phun thuốc ngừa, cũng như trị sâu, bệnh gần cả chục lần. Theo ông Hoàng, thời tiết ngày càng khắc nghiệt, sâu, bệnh không chỉ hoành hành trên lúa mà cả hoa màu. Riêng lúa của ông nhờ phun ngừa thường xuyên mà hạn chế được tình trạng cháy trên diện rộng. Tuy vậy, trong khu ruộng cũng bị cháy lốm đốm. Chưa năm nào sâu, bệnh hoành hành như năm nay. Với trà lúa này, năng suất ước giảm khoảng 10 – 15%.
Dẫn chúng tôi lại đường dẫn nước từ ruộng xuống kinh, ông Hoàng chỉ rầy nâu chết thối nước, đóng thành lớp dày dọc theo đường dẫn nước. Ông Hoàng nói: “Ruộng tôi mới phun thuốc trừ rầy 2 ngày nay, rầy chết đóng thành lớp dày như vậy. Nếu phun trễ 1 – 2 ngày nữa là cháy hết”.


Sau khi phun thuốc, rầy nâu vẫn còn đeo bám rất nhiều trên cây lúa.
Sau khi phun thuốc, rầy nâu vẫn còn đeo bám rất nhiều trên cây lúa.
Theo người dân, nguyên nhân dẫn đến tình trạng sâu, rầy nhiều là do trong nhiều năm trở lại đây, nước lũ không về, sâu, rầy có điều kiện phát triển. Thêm vào đó, người dân trong những vùng đê bao khép kín, thấy nước lũ không về nên tranh thủ gieo sạ trước. Những diện tích này khi thu hoạch cũng là lúc những cánh đồng khác vừa xuống giống. Chính điều đó sâu, rầy di trú từ đồng này sang đồng khác. Ngoài ra, vấn đề thời tiết với mưa nắng thất thường cũng ảnh hưởng không nhỏ. Cụ thể, trong vụ hè thu này, những trận mưa lớn kéo dài trong nhiều ngày. Sau khi kết thúc mưa, trời nắng như đổ lửa. Đây là điều bất thường so với những năm về trước.
Trong một báo cáo gần đây của Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cho thấy tình hình rầy nâu và các loại sâu bệnh khác diễn biến khá phức tạp. Trong đó, rầy nâu gây nhiễm 1.242 ha, tập trung giai đoạn 1 – 3 ngày tuổi, mật số trung bình 200 – 400 con/m2, xuất hiện chủ yếu trên lúa hè thu giai đoạn đẻ nhánh đến làm đòng, trổ tại các huyện phía Tây và xuất hiện rải rác trên lúa đông xuân 2016 – 2017 giai đoạn chín tại huyện Chợ Gạo. Riêng tại huyện Cái Bè có 578 ha nhiễm rầy với mật số 800 – 1.000 con/m2 và 50 ha nhiễm rầy với mật số 1.500 – 2.000 con/m2, các diện tích này đang được cơ quan chuyên môn tiếp tục theo dõi. Còn diện tích nhiễm sâu cuốn lá nhỏ có 745 ha, tập trung chủ yếu giai đoạn 3 – 4 ngày tuổi, mật số 3 – 5 con/m2, xuất hiện chủ yếu trên lúa hè thu giai đoạn đẻ nhánh – làm đòng tại các huyện Cái Bè, Cai Lậy và TX. Cai Lậy; 953 ha nhiễm bệnh cháy lá, tỷ lệ bệnh 3 – 5% xuất hiện trên lúa hè thu giai đoạn đẻ nhánh tại các huyện Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Tân Phước và TX. Cai Lậy.
Vụ hè thu 2017, toàn tỉnh xuống giống trên 38.000 ha. Hiện, lúa giai đoạn mạ, đẻ nhánh, đứng cái – làm đòng, trổ, chín. Ngành Nông nghiệp khuyến cáo cán bộ kỹ thuật ở địa phương cần thường xuyên phối hợp nông dân tổ chức thăm đồng để kịp thời phát hiện và khống chế dịch hại, không lây lan ra diện tích mới. Sâu, bệnh tiếp tục phát triển mạnh, gây hại chủ yếu trên các trà lúa từ đẻ nhánh đến làm đòng, nông dân cần chủ động thăm đồng, phun thuốc đặc trị khi bệnh xuất hiện; chú ý đề phòng sâu cuốn lá trong giai đoạn lúa đẻ nhánh đến làm đòng để phun trừ, giảm thấp nhất mức thiệt hại
(Nguồn Tây Đô)

Bài đăng phổ biến từ blog này

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu

Cách trồng và chăm sóc cây lá lốt trong chậu Xuất hiện trong nhiều món ăn quen thuộc và có nhiều tác dụng khác nhau nên lá lốt được trồng ở khắp nơi. Người dân chỉ cần chú ý theo một số kỹ thuật trồng cây dưới đây là có thể tự cung cấp rau cho gia đình. Cây lá lốt có tên khoa học là Piper lolot, thuộc họ  hồ tiêu  (Piperaceae) và có  kỹ thuật trồng cây  rất đơn giản. Lá lốt là loại rau quen thuộc và được dùng phổ biến trong các bữa ăn. Lá lốt thường được sử dụng ăn sống như các loại rau thơm hoặc làm rau gia vị khi nấu canh. Ngoài là rau ăn lá, lá lốt còn là vị thuốc chữa nhiều bệnh, khi dùng có thể dùng tươi, phơi hay sấy khô. Lá lốt có kỹ thuật trồng cây không quá khó Đây là loài cây thảo sống nhiều năm, thân có rãnh dọc. Lá đơn nguyên, mọc so le, hình tim, có màu xanh đậm, mặt lá bóng. Hoa mọc từ nách lá, cụm hoa bông, hoa đực và hoa cái khác gốc. Quả mọng chứa một hạt. Cây thường mọc hoang trong rừng, nơi ẩm ướt dọc các bãi cát ven suối và phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc

Những cây trồng mang lợi nhuận tỷ đô tại Việt Nam

Những cây trồng mang lợi nhuận tỷ đô tại Việt Nam Thị trường giống cây trồng Việt Nam có nhiều biến động mạnh trong suốt nhiều năm qua, đặc biệt là giống cây trồng các loại hạt được liệt vào danh sách siêu thực phẩm, cho giá trị kinh tế hàng tỷ USD. Cao lương Cây cao lương hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao lên tới hàng tỷ USD Cây cao lương vốn không còn là loại cây xa lạ với người Việt Nam, từ những năm 70, 80 của thế kỷ trước người dân đã tròng nhiều và dung làm lương thực thay thế gạo lúc đói kém.   Sau hàng chục năm không mang lại hiệu quả gì về kinh tế thì Tập đoàn Sol Holding (Nhật Bản) đã mang giống cao lương trở lại Việt Nam với nhiều hứa hẹn hấp dẫn về giá trị kinh tế. Theo ý kiến từ công ty này, đây là giống cây siêu cao lương được các nhà khoa học Nhật Bản lai tạo đưa lại năng suất cao và đáp ứng nhiều mục đích khác nhau. Ngoài mục đích làm thức ăn chăn nuôi, chúng còn được sử dụng để chế biến viên nén sinh

Chăn nuôi nông hộ giúp gì cho nông dân?

Chăn nuôi nông hộ giúp gì cho nông dân? Nhiều hộ dân xã An Dương (Tân Yên, Bắc Giang) đầu tư phát triển chăn nuôi đạt hiệu quả kinh tế cao. LTS - Tiếp tục cuộc thi viết về: "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn" do Báo Nhân Dânphối hợp Hội Nông dân Việt Nam và Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất dầu khí (Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam) tổ chức, bắt đầu từ hôm nay (17-4), chúng tôi sẽ lần lượt đăng các bài gửi tham dự cuộc thi năm 2014 với chủ đề: "Tái cơ cấu nông nghiệp, gắn với xây dựng nông thôn mới". Rất mong nhận được sự cộng tác của các cộng tác viên và bạn đọc. Đối với sản xuất nông nghiệp nông hộ, có thể coi ngành chăn nuôi như là "nhà máy chế biến" các sản phẩm phụ trồng trọt mà con người không ăn được (rơm cỏ, thân, lá, rễ, hạt) hoặc sản phẩm phụ có dinh dưỡng thấp (cám, bã...) để tạo ra những sản phẩm cao cấp, đó là thịt, trứng, sữa... Chính sự liên kết giữa trồng trọt và chăn nuôi đã tạo nên sức mạnh